Tội vi phạm về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí

Theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí thì “Người nào được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

1. Các yếu tố cấu thành tội phạm

1.1. Về mặt khách quan của tội phạm

Thứ nhất, mặt khách quan của tội này được thể hiện qua các hành vi sau đây:

Là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước như: Mua sắm tài sản nhà nước vượt quá tiêu chuẩn, định mức theo chế độ quản lí, sử dụng tài sản nhà nước; hoặc sử dụng tài sản nhà nước không đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ; hoặc không sử dụng tài sản của nhà nước dưới mưa nắng dẫn đến bị hư hỏng nặng gây thất thoát, lãng phí…

Hành vi nêu trên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường hợp sau:

– Gây thất thoát, lãng phí tài sản có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên.

– Gây thất thoát, lãng phí tài sản có giá trị từ dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

Thứ hai, về hậu quả của hành vi: Gây thất thoát, lãng phí tài sản của Nhà nước. Đây là tội có cấu thành vật chất nên hậu quả gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.

– Về mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Tức là, người thực hiện hành vi vi phạm, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

1.2. Về khách thể của tội phạm

– Xâm phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước tại các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp.

– Đối tượng bị xâm phạm: Tài sản Nhà nước.

1.3. Về chủ thể của tội phạm

– Là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

– Là người được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước.

Như vậy, người được xác định là có hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí thì phải thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành nêu trên.

2. Hình phạt

Căn cứ theo quy định tại Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí được bao gồm 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:

2.1. Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm (Khoản 1 Điều 219 BLHS 2015) khi phạm tội thuộc trường hợp:

– Gây thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; hoặc

– Gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2.2. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 12 năm (khoản 2 Điều 219 BLHS 2015) khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Vì vụ lợi;

– Có tổ chức;

– Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

– Gây thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

2.3. Khung 3: Phạt tù từ 10 – 20 năm (Khoản 3 Điều 219 BLHS 2015) khi phạm tội thuộc trường hợp gây thất thoát, lãng phí 1.000.000.000 đồng trở lên.

2.4. Hình phạt bổ sung: Ngoài những khung hình phạt chính nêu trên thì người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản (Khoản 4 Điều 219 BLHS 2015).

3. Ý nghĩa của việc quy định Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã thay thế tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (được quy định tại Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999) bằng 09 tội danh mới thuộc các lĩnh vực: quản lý cạnh tranh, đầu tư công; quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; đấu thầu; đấu giá tài sản; kế toán; quản lý thuế; xây dựng; bồi thường thu hồi đất, quy định cụ thể tại các Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 220, Điều 221, Điều 222, Điều 223, Điều 224 và Điều 230 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí là một trong những tội thuộc lĩnh vực “quản lý, sử dụng tài sản nhà nước” được quy định hoàn toàn mới tại Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Việc Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định loại tội phạm này là cần thiết bởi:

Thứ nhất, quy định chung về “Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” tại Bộ luật Hình sự năm 1999 khó áp dụng trên thực tế, không đáp ứng được nhu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm bởi hiện nay đã phát sinh rất nhiều hành vi xâm phạm đến trật tự kinh tế, đặc biệt là hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí.

Thứ hai, tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí được quy định tại một điều riêng trong Bộ luật Hình sự năm 2015 với những khung hình phạt cụ thể là chế tài nghiêm khắc nhằm mục đích răn đe, góp phần làm giảm đáng kể tội phạm xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, giúp bảo vệ chế độ quản lí, sử dụng của Nhà nước đối với tài sản.

Do đó, có thể khẳng định rằng Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định bổ sung về Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí là hợp lý, phù hợp với công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nói riêng và tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung tại nước ta, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.