Tội trốn thuê

1. Các yếu tố cấu thành tội phạm

1.1. Về mặt khách quan của tội phạm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Quản lý thuế năm 2019 thì Thuế là một khoản nộp ngân sách nhà nước bắt buộc của tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân theo quy định của các luật thuế. Mọi tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của các luật về thuế, bao gồm nhưng không giới hạn ở các nghĩa vụ thuế sau: Thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp…

Tại Điều 6 Luật Quản lý thuế năm 2019 đã đưa ra quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý thuế, trong đó có hành vi trốn thuế.

Trốn thuế là hành vi gian dối nhằm mục đích trốn tránh để không phải nộp tiền thuế hoặc để nộp tiền thuế ít hơn mức thuế phải nộp, hành vi này có thể được biểu hiện khác nhau như: Khai bớt doanh thu, khai man hàng hóa, gian lận trong việc hạch toán hoặc có những thủ đoạn gian dối khác để không phải nộp số tiền thuế mà theo pháp luật họ phải nộp. Theo đó, thủ đoạn trốn thuế được thực hiện dưới nhiều hành vi khác nhau được quy định tại khoản 1 Điều 200 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bao gồm:

– Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật;

– Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp;

– Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán;

– Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;

– Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;

– Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;

– Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;

– Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;

– Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế.

Lưu ý: Tội trốn thuế có cấu thành vật chất, do đó các hành vi nêu trên chỉ được coi là hành vi phạm tội nếu trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

– Về mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Cá nhân, pháp nhân phạm tội nhận thức được hành vi trốn thuế của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vì vụ lợi vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ, mục đích phạm tội là vụ lợi.

– Về khách thể của tội phạm

Tội trốn thuế xâm phạm đến những quy định pháp luật của Nhà nước về thuế làm thất thu ngân sách Nhà nước.

– Về chủ thể của tội phạm

Căn cứ theo quy định tại Điều 12, Điều 76 và Điều 200 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì chủ thể của tội trốn thuế có thể là:

– Cá nhân đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

– Pháp nhân thương mại.

2. Hình phạt

Khung hình phạt Hành vi phạm tội Cá nhân Pháp nhân thương mại
Khung hình phạt thứ nhất

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 200 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm (Khoản 1 Điều 200 BLHS 2015)

Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng (Điểm a Khoản 5 Điều 200 BLHS 2015)

Khung hình phạt thứ hai Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 200 BLHS 2015 bao gồm:

 

– Có tổ chức

– Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn

– Phạm tội 02 lần trở lên

– Tái phạm nguy hiểm

Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm (khoản 2 Điều 200 BLHS 2015) Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng (Điểm b Khoản 5 Điều 200 BLHS 2015)
Khung hình phạt thứ ba Trốn thuế với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên. Phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm (Khoản 3 Điều 200 BLHS 2015)

 

 

Phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc bị đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm (Điểm c Khoản 5 Điều 200 BLHS 2015)
Khung hình phạt thứ tư     Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (Điểm d Khoản 5 Điều 200 BLHS 2015)
Khung hình phạt bổ sung   Ngoài những khung hình phạt chính nêu trên thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản (Khoản 4 Điều 200 BLHS 2015)  Ngoài những khung hình phạt chính nêu trên thì pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm (Điểm đ Khoản 5 Điều 200 BLHS 2015)

3. Những điểm mới của của Tội trốn thuế tại BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) so với BLHS năm 1999

So với Điều 161 BLHS 1999 thì Điều 200 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có những thay đổi mang tính hoàn thiện hơn về hành lang pháp lý đối với Tội trốn thuế, cụ thể:

Thứ nhất, quy định rõ ràng, cụ thể về hành vi phạm tội

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 161 BLHS 1999 thì quy định “Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng  hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232,233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm”.

Tuy nhiên, BLHS 1999 lại không quy định cụ thể các hành vi phạm tội trốn thuế bao gồm những hành vi nào. Điều này vô tình đã khiến việc căn cứ, áp dụng quy định của cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn trên thực tế.

Do đó, khắc phục hạn chế nêu trên, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định cụ thể và rõ ràng về các hành vi phạm tội (bao gồm 09 hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 200 BLHS 2015 nêu tại Phần 1 nêu trên).

Thứ hai, quy định thay đổi về các dấu hiệu định khung hình phạt và mức phạt

Điều 200 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có sự thay đổi về các dấu hiệu định khung hình phạt và mức phạt so với Điều 161 BLHS 1999, cụ thể như sau:

⇒ Đối với khung hình phạt thứ nhất

– Thay đổi tình tiết định khung “trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232,233, 236 và 238 của Bộ luật này” thành “trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 248, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

– Thay đổi mức phạt “phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm” thành “phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

⇒ Đối với khung hình phạt thứ hai

– Thay đổi tình tiết định khung “Phạm tội trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này” thành “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Có tổ chức; Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm nguy hiểm”.

– Thay đổi mức phạt “bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” thành “phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm”.

⇒ Đối với khung hình phạt thứ ba

– Thay đổi tình tiết định khung “trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác” thành “trốn thuế với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên”.

– Thay đổi mức phạt “phạt tù từ hai năm đến bảy năm” thành “phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

– Đối với khung hình phạt bổ sung: Thay đổi hình phạt “phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế” thành “phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Như vậy, có thể thấy so với BLHS 1999, BLHS năm 2015 đã có nhiều điểm mới về các dấu hiệu định khung hình phạt và mức phạt như: thay đổi, cụ thể hóa các tình tiết định khung; nâng mức phạt tiền và phạt tù; quy định mức phạt tiền cụ thể thay vì tính theo số lần so với số tiền trốn thuế như trước kia. Điều này sẽ góp phần răn đe các đối tượng phạm tội trong thực tiễn.

Thứ ba, quy định bổ sung chủ thể phạm tội là pháp nhân thương mại

Theo quy định tại BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì chủ thể của tội phạm là người đủ 16 tuổi trở lên và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại.

So với BLHS năm 1999 quy định chủ thể của Tội trốn thuế chỉ là cá nhân, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã mở rộng chủ thể của tội phạm bao gồm cả pháp nhân thương mại.

Thực tiễn trong thời gian qua ở Việt Nam cho thấy nhiều doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện hành vi trốn thuế. Do đó, việc quy định bổ sung về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với Tội trốn thuế nêu trên là vô cùng cần thiết, là cơ sở để các doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật về thuế.

Từ tất cả các căn cứ nêu trên, có thể thấy so với BLHS 1999, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có nhiều điểm mới về hành vi phạm tội, các dấu hiệu định khung hình phạt, mức phạt. Đặc biệt, việc quy định bổ sung về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đã góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế của BLHS năm 1999 về Tội trốn thuế, tránh bỏ lọt tội phạm, tạo hành lang pháp lý quan trọng để tránh làm thất thu ngân sách Nhà nước cũng như hành lang pháp lý quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nói riêng và tội phạm trong lĩnh vực thuế nói chung tại nước ta, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.