Trách nhiệm hình sự của người dưới 16 tuổi

Trách nhiệm hình sự của người dưới 16 tuổi

Ngày Đăng: 3 Tháng 8, 2021

1. Quy định về trường hợp người dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì:

“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.

Như vậy, theo quy định trên, người dưới 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng đối với một số tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nêu trên. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các điều kiện sau:

Thứ nhất, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội phải thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Theo quy định tại điểm c, điểm d khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì:

  • Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
  • Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Thứ hai người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải phạm một trong các tội được quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cụ thể:

Một là, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người bao gồm: Tội giết người (Điều 123), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134), Tội hiếp dâm (Điều 141), Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), Tội cưỡng dâm (Điều 143), Tội cưỡng dâm người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144), Tội mua bán người (Điều 150), Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151).

Hai là, các tội xâm phạm sở hữu bao gồm: Tội cướp tài sản (Điều 168), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170); Tội cướp giật tài sản (Điều 171); Tội trộm cắp tài sản (Điều 173); Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178).

Ba là, các tội phạm về ma túy bao gồm: Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252).

Bốn là, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng bao gồm: Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 265); Tội đua xe trái phép (Điều 266); Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286); Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287); Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (Điều 289); Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290); tội khủng bố (Điều 299); Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303); Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 304).

2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội

Theo các quy định tại Chương XII Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với người tử đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải đảm bảo các quy định sau:

2.1. Nguyên tắc xử lý đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội

Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), việc xử lý trách nhiệm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội phải đảm bảo nguyên tắc:

Thứ nhất, phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người đó và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Đồng thời, việc xử lý người phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

Thứ hai, người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự (theo quy định tại Điều 29 của Bộ luật Hình sự năm 2015) thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục được quy định tại Mục 2 Chương XII Bộ luật Hình sự năm 2015:

– Phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), trừ tội phạm quy định tại các Điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

– Là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Thứ ba, chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

Thứ tư, khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục (quy định tại Mục 2 Chương XII Bộ luật Hình sự năm 2015) hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (quy định tại Mục 3 Chương XII Bộ luật Hình sự năm 2015) không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

Thứ năm, Tòa án không áp dụng các hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với đối tượng này.

Thứ sáu, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Ngoài ra, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các đối tượng này.

Thứ bảy, án đã tuyên đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

2.2. Các biện pháp phi hình phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội

2.2.1. Biện pháp giám sát, giáo dục

Thứ nhất, về căn cứ được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 91 và Điều 92 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội có thể được miễn miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi có đủ các điều kiện sau:

(1) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

(2) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội đã tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.

(3) Người phạm tội và tội phạm được thực hiện phải thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các Điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.

(4) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý.

Thứ hai, về các biện pháp giám sát, giáo dục được áp dụng

– Khiển trách: Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

– Hòa giải tại cộng đồng: Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 94 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

– Giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Thứ ba, về các nghĩa vụ mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội phải thực hiện.

Sau khi được miễn trách nhiệm hình sự, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội phải chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động; chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn; không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép; tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.

2.2.2. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

Thứ nhất, về căn cứ áp dụng biên pháp

Theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì Tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng từ 01 năm đến 02 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

Thứ hai, về các nghĩa vụ mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội phải thực hiện

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội khi được giáo dục tại trường giáo dưỡng phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường.

Lưu ý: Khi đã chấp hành một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của trường giáo dưỡng được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, Tòa án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại trường giáo dưỡng theo quy định tại khoản 2 Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

3. Các hình phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội

Theo quy định tại Điều 98 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:

  • Cảnh cáo;
  • Phạt tiền;
  • Cải tạo không giam giữ;
  • Tù có thời hạn.

Tuy nhiên, do hình phạt cảnh cáo chỉ được quy định chung cho các trường hợp phạm tội thuộc loại tội ít nghiêm trọng (theo quy định tại Điều 34 Bộ luật Hình sự năm 2015). Bên cạnh đó, hình phạt tiền chỉ cho phép áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có thu nhập hoặc có tài sản riêng (theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Hình sự năm 2015). Do đó, đối với trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội thì sẽ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đối với mỗi tội phạm: Cải tạo không giam gi; Tù có thời hạn.

3.1. Hình phạt cải tạo không giam giữ:

Thứ nhất, về căn cứ áp dụng hình phạt

Theo quy định tại khoản 1 Điều 36, khoản 1 Điều 100 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hình phạt cải tạo không giam giữ được Tòa án áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội khi thỏa mãn điều kiện:

– Người phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng.

– Người phạm tội rất nghiêm trọng.

Thứ hai, về các nội dung của hình phạt cải tạo không giam giữ cần lưu ý các vấn đề sau:

– Không khấu trừ thu nhập đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ;

– Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không được vượt quá 1/2 thời hạn mà điều luật định (tức là không quá 01 năm 06 tháng đối với người phạm tội).

3.2 Hình phạt tù có thời hạn

Ngoài những nội dung có liên quan đến hình phạt tù có thời hạn được thể hiện ở các nguyên tắc xử lý người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì mức phạt tù đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội như sau:

– Nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù.

– Nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

4. Các vấn đề khác có liên quan khác

4.1. Về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tôi, phạm tội chưa đạt

– Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội: Theo quy định tại khoản 3 Điều 14 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123 (Tội giết người) hoặc Điều 168 (Tội cướp tài sản).

Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng (khoản 2 Điều 102 Bộ luật Hình sự năm 2015);

– Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt: Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 102 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt là không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn.

4.2. Về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạt nhiều tội

Theo quy định tại khoản 1 Điều 103 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì đối với trường hợp các tội phạm được thực hiện khi người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội như sau:

– Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất không được quá 03 năm;

– Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất không quá 12 năm tù.

4.3 Về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Vấn đề tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, đối với trường hợp mà người phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định bổ sung về việc hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất tại Điều 103 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tức là không quá 12 năm tù.

4.4. Về giảm mức phạt đã tuyên

Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì:

– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.

– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

4.5. Về tha tù trước thời hạn có điều kiện

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội đang chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc các trường hợp không áp dụng tha tù trước thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 66 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì có thể được tha tù trước hạn khi có đủ các điều kiện sau đây: Phạm tội lần đầu; Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù; Có nơi cư trú rõ ràng.

4.6. Về xóa án tích

Người bị kết án là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi sẽ được coi là không có án tích theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có rất nhiều quy định thể hiện tính nhân đạo trong chính sách xử lý hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội. Việc quy định nêu trên là hoàn toàn hợp lý bởi những chủ thể phạm tội này là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lí, trình độ nhận thức. Do đó, không thể đặt trách nhiệm hình sự của những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi như trách nhiệm hình sự của người từ đủ 18 tuổi trở lên.

NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CHẾ ĐỘ MỘT VỢ, MỘT CHỒNG

1. Các yếu tố cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

1. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về bảo vệ động […]

XEM THÊM
NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội tham ô tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM