1. Các yếu tố cấu thành tội phạm
1.1. Về mặt khách quan của tội phạm
Thứ nhất, mặt khách quan của tội này được thể hiện qua các hành vi sau đây:
Tội phạm được thực hiện thông qua các dấu hiệu được quy định tại khoản 1 Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cụ thể bao gồm:
– Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
– Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
– Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;
– Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;
– Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
– Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
– Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
– Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
– Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
– Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.
Thứ hai, về hậu quả của hành vi phạm tội: Gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên. Đây là tội có cấu thành vật chất nên hậu quả gây thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
– Về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người phạm tội biết hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng của mình gây ra hậu quả nghiêm trọng, là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm.
– Về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội này là sự xâm phạm hoạt động đúng đắn và an toàn của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
– Về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người đủ 16 tuổi trở lên và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
2. Hình phạt
Căn cứ theo quy định tại Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hình phạt đối với Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng được bao gồm 04 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (Khoản 1 Điều 206 BLHS 2015) khi phạm tội thuộc trường hợp:
– Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
– Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
– Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;
– Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;
– Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
– Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
– Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
– Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
– Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
– Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.
Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm khi phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng (khoản 2 Điều 206 BLHS 2015).
Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm khi phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng (Khoản 3 Điều 206 BLHS 2015).
Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm khi phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại về tài sản 3.000.000.000 đồng trở lên (Khoản 4 Điều 206 BLHS 2015).
Hình phạt bổ sung: Ngoài những khung hình phạt chính nêu trên thì người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm (Khoản 5 Điều 206 BLHS 2015).
3. Những điểm mới của của Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) so với Bộ luật Hình sự năm 1999
So với Điều 179 Bộ luật hình sự 1999 thì Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có những thay đổi mang tính hoàn thiện hơn về hành lang pháp lý đối với Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Cụ thể:
Thứ nhất, quy định rõ ràng về hậu quả của hành vi phạm tội
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 179 Bộ luật hình sự 1999 thì quy định “Người nào trong hoạt động tín dụng mà có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến bảy năm”.
Tuy nhiên, Bộ luật hình sự 1999 lại không quy định cụ thể cách xác định hậu quả như thế nào là nghiêm trọng. Điều này vô tình đã khiến việc căn cứ, áp dụng quy định của Cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn trên thực tế.
Do đó, khắc phục hạn chế nêu trên, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định cụ thể về hậu quả của hành vi phạm tội, đó là gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên. Điều này sẽ giúp các Cơ quan tiến hành tố tụng xác định chính xác hơn về hành vi của đối tượng vi phạm.
Thứ hai, quy định đầy đủ, chi tiết và rõ ràng về hành vi khách quan của tội phạm
Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật hình sự 1999 quy định về hành vi khách quan của tội này bao gồm: (1) Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật; (2) Cho vay quá giới hạn quy định; (3) Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, quy định nêu trên vẫn còn tồn tại bất cấp như: Chưa quy định đầy đủ, rõ ràng các hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, Quy định về “hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt động tín dụng” còn chung chung, khó áp dụng trên thực tế…
Khắc phục được hạn chế nêu trên, khoản 1 Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định cụ thể các hành vi phạm tội bao gồm:
– Cấp tín dụng cho trường hợp không được cấp tín dụng, trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng;
– Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
– Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng;
– Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm;
– Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng;
– Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
– Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng;
– Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả;
– Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
– Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.
Đây có thể coi là một bước hoàn thiện của Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo đó, hành vi khách quan của Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng đã được quy định đầy đủ, chi tiết, rõ ràng, giúp việc áp dụng quy định được thực hiện dễ hơn trên thực tế.
Thứ ba, quy định mở rộng về chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì chủ thể của tội phạm là người đủ 16 tuổi trở lên và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
So với Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định chủ thể của Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ người nào có quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực cho vay trong hoạt động tín dụng mới có thể phạm tội thì Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã mở rộng chủ thể của tội phạm bao gồm cả chủ thể thường (Ví dụ: Hành vi kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép không cần dấu hiệu là chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn).
Thứ tư, quy định thay đổi về các mức hình phạt
Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có sự thay đổi so với Điều 179 Bộ luật hình sự 1999, cụ thể như sau:
Một là, đối với khung hình phạt cơ bản
Tăng mức phạt tiền “từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng” thành phạt tiền từ “từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng”. Điều này là phù hợp với tình hình phát triển kinh tế nước ta từ năm 1999 đến nay.
– Tách khung hình phạt “từ một năm đến bảy năm” thành 02 khung hình phạt mới: (1) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với hành vi gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng (khoản 1 Điều 206 BLHS 2015); (2) Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm khi phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng (khoản 2 Điều 206 BLHS 2015).
Hai là, đối với các khung hình phạt tăng nặng
– Khoản 2 Điều 179 Bộ luật hình sự 1999 quy định mức hình phạt tù từ 05 đến 12 năm, còn Khoản 3 Điều 206 BLHS 2015 quy định mức hình phạt từ 07 năm đến 12 năm khi phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng.
– Khoản 3 Điều 179 Bộ luật hình sự 1999 quy định mức hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm, còn Khoản 4 Điều 206 BLHS 2015 phạt tù từ 12 năm đến 20 năm khi phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại về tài sản 3.000.000.000 đồng trở lên.
Như vậy, qua phân tích nêu trên cho chúng ta thấy, đối với Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều điểm mới mang tính rõ ràng, chi tiết và hoàn thiện hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999, phù hợp với công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nói riêng và tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung tại nước ta, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.