Tình huống về trường hợp không phải xóa đăng ký thường trú

Tình huống về trường hợp không phải xóa đăng ký thường trú

Ngày Đăng: 8 Tháng Hai, 2022

Chào Luật sư,

Cuối tháng 10/2021, tôi và chồng tôi đã thực hiện xong thủ tục ly hôn tại Tòa án, hiện tại tôi chuyển đến sinh sống ở tại nhà tôi mới mua tại quận T, thành phố Hà Nội. Tôi muốn hỏi tên tôi vẫn còn trong sổ hộ khẩu đứng tên chủ hộ là chồng tôi tại nơi ở cũ thì tôi có được đăng ký thường trú tại nơi ở mới không? Khi thực hiện thủ tục đăng ký thường trú tại nơi ở mới, tôi có phải nộp Sổ hộ khẩu này và thực hiện thủ tục xóa đăng ký thường trú tại nơi ở cũ hay không?

Cảm ơn Luật sư!

Trả lời:

Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi có tư vấn như sau:

1. Về việc đăng ký thường trú của bạn tại nơi ở mới?

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Cư trú 2020 về điều kiện đăng ký thường trú thì Công dân có chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình thì được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp đó.

Căn cứ khoản 4 Điều 22 Luật Cư trú 2020 thì người đã đăng ký thường trú mà chuyển đến chỗ ở hợp pháp khác và đủ điều kiện đăng ký thường trú thì có trách nhiệm đăng ký thường trú tại nơi ở mới theo quy định của Luật này trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày đủ điều kiện đăng ký.

Như vậy, theo thông tin bạn cung cấp thì bạn có đủ điều kiện đăng ký thường trú tại nơi ở mới và trách nhiệm đăng ký thường trú tại nơi ở mới này trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày bạn hoàn thành việc mua bán, đăng ký biến động đối với ngôi nhà mới tại quận T, thành phố Hà Nội tại cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, việc bạn còn tên trong Sổ hộ khẩu cũ sẽ không bị ảnh hưởng đến việc bạn đăng ký thường trú nơi ở mới.

Về việc bạn có phải nộp lại Sổ hộ khẩu khi đăng ký thường trú tại nơi ở mới hay không?

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật Cư trú 2020 thì hồ sơ đăng ký thường trú gồm:

– Tờ khai thay đổi thông tin cư trú (theo mẫu CT01 tại Thông tư số 56/2021/TT-BCA).

– Giấy tờ, tài liệu chứng minh việc sở hữu chỗ ở hợp pháp (Ví dụ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất).

Như vậy, theo quy định nêu trên thì hồ sơ đăng ký thường trú không bao gồm Sổ hộ khẩu.

Tuy nhiên, khi bạn đăng ký thường trú tại nơi ở mới thì đây sẽ thuộc trường hợp thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu. Do đó, cơ quan đăng ký thường trú có trách nhiệm thu hồi Sổ hộ khẩu đã cấp để thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Cư trú 2020. Tức là, bạn sẽ phải nộp lại Sổ hộ khẩu cho cơ quan đăng ký thường trú để thực hiện việc đăng ký thường trú tại nơi ở mới.

2. Về việc có phải thực hiện thủ tục xóa đăng ký thường trú tại nơi ở cũ?

Căn cứ theo quy định Điều 24 Luật Cư trú 2020 thì người thuộc một trong các trường hợp sau bị xóa đăng ký thường trú:

– Chết; có quyết định của Tòa án tuyên bố mất tích hoặc đã chết;

– Ra nước ngoài để định cư;

– Đã có quyết định hủy bỏ đăng ký thường trú quy định tại Điều 35 của Luật Cư trú 2020 (“Trường hợp cơ quan, người có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng và điều kiện theo quy định của Luật này thì cơ quan đã thực hiện việc đăng ký hoặc thủ trưởng cấp trên trực tiếp của cơ quan đã đăng ký có trách nhiệm ra quyết định hủy bỏ việc đăng ký đó. Cơ quan đã đăng ký có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho người đăng ký và nêu rõ lý do”).

– Vắng mặt liên tục tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên mà không đăng ký tạm trú tại chỗ ở khác hoặc không khai báo tạm vắng, trừ trường hợp xuất cảnh ra nước ngoài nhưng không phải để định cư hoặc trường hợp đang chấp hành án phạt tù, chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng;

– Đã được cơ quan có thẩm quyền cho thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam;

– Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ mà sau 12 tháng kể từ ngày chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ vẫn chưa đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, trừ trường hợp quy định tại điểm h khoản này;

– Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp nhưng sau đó quyền sở hữu chỗ ở đó đã chuyển cho người khác mà sau 12 tháng kể từ ngày chuyển quyền sở hữu vẫn chưa đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, trừ trường hợp được chủ sở hữu mới đồng ý tiếp tục cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ và cho đăng ký thường trú tại chỗ ở đó hoặc trường hợp quy định tại điểm h khoản này;

– Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ và không được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý cho giữ đăng ký thường trú tại chỗ ở đó; người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở thuộc quyền sở hữu của mình nhưng đã chuyển quyền sở hữu chỗ ở cho người khác và không được chủ sở hữu mới đồng ý cho giữ đăng ký thường trú tại chỗ ở đó;

– Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở đã bị phá dỡ, tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tại phương tiện đã bị xóa đăng ký phương tiện theo quy định của pháp luật.

Như vậy, Điều 24 Luật Cư trú 2020 đã bỏ quy định xóa đăng ký thường trú đối với trường hợp công dân đã đăng ký thường trú ở nơi cư trú mới (được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 22 Luật Cư trú 2006). Việc quy định này nhằm giúp đơn giản hóa, giảm bớt thủ tục hành chính đối với công dân cũng như đối với Cơ quan đăng ký thường trú khi công dân thực hiện đăng ký thường trú tại nơi ở mới.

Do đó, khi đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, bạn sẽ không phải thực hiện thủ tục xóa đăng ký thường trú tại nơi ở cũ.

Quy định pháp luật về việc xác minh điều kiện thi hành án

1. Khái niệm xác minh điều kiện thi hành án Xác minh điều kiện thi […]

XEM THÊM
Quy định pháp luật về lấy ý iến con khi ly hôn

1. Quy định pháp luật về lấy ý kiến con khi ly hôn 1.1. Đối […]

XEM THÊM
Các quy định về việc khai thác thông tin căn cước công dân

1. Quy định pháp luật về cung cấp thông tin công dân trong Cơ sở […]

XEM THÊM
Các trường hợp công dân bị xóa đăng ký thường trú

Ngày 01/7/2021, Luật Cư trú số 68/2020/QH14 ngày 13/11/2020 và Thông tư số 55/2021/TT-BCA ngày […]

XEM THÊM