Tình huống:
Thưa Luật sư, Công ty chúng tôi là Công ty A có ký Hợp đồng mua bán giấy và các sản phẩm từ giấy với Công ty B vào ngày 21/03/2021, trong đó, Công ty B sẽ bán giấy và các sản phẩm từ giấy theo các đơn đặt hàng của Công ty chúng tôi. Qúa trình thực hiện Hợp đồng, mỗi khi chúng tôi có đơn đặt hàng gửi sang thì Công ty B đều chuẩn bị hàng và giao đầy đủ hàng hóa theo đúng mẫu mã, chủng loại cho chúng tôi. Tuy nhiên, đến lần thứ 4 khi chúng tôi gửi đơn đặt hàng sang Công ty B thì ông Nguyễn Văn C – Giám đốc, đồng thời là đại diện theo pháp luật của Công ty B yêu cầu chúng tôi tạm ứng trước 100 triệu tiền hàng với lý do đơn đặt hàng này giá trị lớn nên cần tạm ứng. Tin tưởng ông Nguyễn Văn C và Công ty B nên Công ty chúng tôi đã chuyển khoản 100 triệu tạm ứng tiền hàng cho ông Nguyễn Văn C vào ngày 16/01/2022. Tuy nhiên, sau đó, Công ty B không giao hàng cho Công ty chúng tôi theo đúng tiến độ, chúng tôi nhiều lần liên hệ với ông Nguyễn Văn C nhưng ông C trốn tránh, không hợp tác, không giao hàng, không hoàn trả tiền cho Công ty chúng tôi.
Vậy, trong trường hợp này chúng tôi có thể trình báo ông Nguyễn Văn C có hành vi phạm tôi gì?
Cảm ơn Luật sư.
Trả lời: Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi có tư vấn như sau:
Đối với vụ việc của bạn, hành vi của ông Nguyễn Văn C có đủ các dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, cụ thể:
1. Về hành vi cấu thành của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại Điều 175 BLHS 2015 thì Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:
Thứ nhất, chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Đây là một trong các điểm mới của Bộ luật hình sự 2015 so với Bộ luật hình sự 1999, bộ luật mới đã có sự tách bạch rõ ràng hơn về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Thứ hai, khách thể của tội phạm
Tội phạm xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản. Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản. Tất cả các loại tài sản gồm vật thực, tiền, tài sản hình thành trong tương lai, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Thứ ba, về mặt chủ quan của tội phạm
Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Mục đích chiếm đoạt tài sản chỉ có sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Người phạm tội nhận thức rõ việc mình chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn mong muốn thực hiện và mong muốn người khác chuyển giao tài sản cho mình để chiếm đoạt.
Thứ tư, về mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện qua các hành vi:
– Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng như hợp đồng gửi giữ tài sản, vận chuyển tài sản, gia công tài sản… Việc chủ tài sản giao tài sản cho người phạm tội là xuất phát từ sự tin tưởng của chủ tài sản đối với người phạm tội.
– Sau khi có tài sản, người phạm tội đã thực hiện các hành vi để chiếm đoạt tài sản gồm: dùng thủ đoạn gian dối nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản, hợp thức hóa tài sản của người khác thành tài sản của mình; bỏ trốn hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng trả nhưng cố tình không trả; sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Đối chiếu với vụ việc nêu trên, nhận thấy:
Thứ nhất, chủ thể của tội phạm
Trong trường hợp này ông Nguyễn Văn C đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, khách thể của tội phạm
Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Văn C xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của Công ty A được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của ông Nguyễn Văn C là lỗi cố ý trực tiếp với mục đích chiếm đoạt tài sản của Công ty A. Ông Nguyễn Văn C không cung cấp được hàng hóa cho Công ty A nhưng lại yêu cầu Công ty A tạm ứng tiền hàng để chiếm đoạt tài sản của Công ty A.
Thứ tư, mặt khách quan trong hành vi của ông Nguyễn Văn C
Theo thông tin bạn cung cấp thì ông C đã có hành vi lấy lý do đơn hàng lần thứ tư có giá trị lớn nên đề nghị Công ty bạn tạm ứng trước số tiền thanh toán là 100.000.000 đồng. Sau đó, ông C không giao hàng cho Công ty bạn và cũng không hoàn trả lại tiền tạm ứng. Bạn có liên hệ thì ông C trốn tránh, không hợp tác. Nhận thấy, ông C đã có hành vi chiếm đoạt số tiền 100.000.000 đồng của Công ty bạn và cố tình không trả lại tài sản cho Công ty bạn.
Số tiền mà ông C chiếm đoạt đáp ứng điều kiện tại điểm c khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và ông C có thể sẽ bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Trên đây là giải đáp của Luật sư liên quan đến câu hỏi của bạn. Nếu có thắc mắc gì, bạn có thể liên hệ với chúng tôi để được giải đáp.
Trân trọng!
Tình huống: Thưa Luật sư, doanh nghiệp tôi kinh doanh thiết bị vệ sinh nhập […]
XEM THÊMTình huống: Thưa Luật sư, chúng tôi là Công ty cổ phần mới thành lập […]
XEM THÊMCâu hỏi: Chúng tôi là Công ty cổ phần thành lập năm 2008 với 7 […]
XEM THÊMCâu hỏi: Thưa Luật sư, tôi và 03 người bạn đang có ý định góp […]
XEM THÊM