Tình huống về tội cưỡng đoạt tài sản

Tình huống về tội cưỡng đoạt tài sản

Ngày Đăng: 8 Tháng 2, 2022

Tình huống:

Thưa Luật sư, con trai tôi năm nay 20 tuổi, cháu có chung sống với như vợ chồng với Nguyễn Thị B (19 tuổi). Trong quá trình sinh sống, hai cháu có sử dụng chung thẻ ATM, sử dụng chung điện thoại di động và dùng chung tiền để sinh hoạt. Do nhiều lần thấy cháu Nguyễn Thị B nhắn tin xin tiền bố mẹ, bố mẹ cháu B có chuyển tiền vào thẻ ATM hai cháu dùng chung nên con trai tôi nảy sinh ý định xin tiền bố mẹ cháu B. Con trai tôi đã nhắn tin đe dọa, uy hiếp tinh thần bố mẹ cháu B để xin số tiền là 10.000.000 VNĐ. Tuy nhiên bố mẹ cháu B chưa chuyển số tiền này cho con trai tôi và con trai  tôi cũng chưa được hưởng bất kỳ lợi ích nào từ hành vi của mình.

Vậy con trai tôi có phạm tội cưỡng đoạt tài sản hay không? Nếu có thì con trai tôi trường hợp được hưởng án treo không và cần đáp ứng những điều kiện gì để được hưởng án treo?

Cảm ơn Luật sư.

Trả lời:

Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi có tư vấn như sau:

  1. Về hành vi cấu thành của tội cưỡng đoạt tài sản

Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội cưỡng đoạt tài sản thì: Cưỡng đoạt tài sản được hiểu là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:

  • Mặt khách quan của tội phạm

Thứ nhất, có hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực

Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực được hiểu là hành vi thể hiện thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản. Giữa thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một khoảng cách nhất định về thời gian nên người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động. Việc đe dọa có thể được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp:

  • Đe dọa trực tiếp: Người phạm tội thực hiện đe dọa bằng lời nói, cử chỉ, hành động… công khai, trực tiếp với người bị hại.
  • Đe dọa gián tiếp: Người phạm tội thực hiện việc đe dọa sẽ dùng vũ lực thông qua các thình thức như: nhắn tin, điện thoại, thư… mà không gặp người bị hại

Trong thực tế, có những trường hợp người bị hại bị người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực nếu không giao tài sản cho người phạm tội nhưng người bị hại không sợ và không giao tài sản cho người phạm tội, sau đó người phạm tội đã thực hiện hành vi vũ lực đối với người bị hại thì cũng không phải là hành vi cướp tài sản mà vẫn là hành vi cưỡng đoạt tài sản.

Thứ hai, có hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác

Hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ làm một việc gây thiện hại về tài sản, danh dự, uy tín nếu người bị uy hiếp không thỏa mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội.

Các thủ đoạn thường sử dụng là lợi dụng những lỗi lầm, khuyết điểm của người bị hại mà người phạm tội biết được để đe dọa sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dựnhân phẩm của họ hoặc đe dọa hủy hoại tài sản, tố giác hành vi phạm pháp… của người bị đe dọa.

Lưu ý: Tội cưỡng đoạt tài sản là tội phạm cấu thành hình thức và thời điểm hoàn thành tội phạm này được tính từ lúc người phạm tội thực hiện xong hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn uy hiếp tinh thần người khác kèm theo đòi hỏi về giao tài sản để (với mục đích) chiếm đoạt. Nếu chỉ thuần túy đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần mà không có hay không gắn liền với yêu cầu về tài sản để chiếm đoạt thì không cấu thành tội phạm này. Việc người thực hiện hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có hành vi khác uy hiếp tinh thần người khác có chiếm đoạt được tài sản hay không không ảnh hưởng đến việc định tội danh.

Nếu người phạm tội mới có hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện, phương thức… để đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa thực hiện được thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

Thứ ba, về hậu quả của tội phạm

Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức, do đó hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạtt.

Theo Điều 170 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 50.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 50.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện:

  • Phạm tội có tổ chức;
  • Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
  • Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
    • Về mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác do mình thực hiện là nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời thấy trước hậu quả của hành vi đó là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra.

  • Khách thể của tội phạm

Tội cưỡng đoạt tài sản là cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Nếu có xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì không phải là những thiệt hại về thể chất (tính mạng, thương tật), mà chỉ có thể là những thiệt hại về tinh thần (sự sợ hãi, lo âu), tuy có ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng không gây ra thương tích cho người bị hại.

  • Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự chỉ là chủ đề của tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015.

Đối chiếu với vụ việc, hành vi của con trai bạn thỏa mãn 04 yếu tố cấu thành tội phạm nêu trên, cụ thể:

  • Về mặt chủ thể: Con trai bạn có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
  • Về mặt hành vi: Con trai bạn đã có hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần của bố mẹ cháu B nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền là 10.000.000 VNĐ. Mặc dù con trai bạn chưa đạt được mục đích phạm tội, bố mẹ cháu B chưa chuyển cho con trai bạn số tiền trên, tuy nhiên do tội phạm là tội có cấu thành hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm con trai bạn thực hiện hành vi phạm tội chứ không phụ thuộc vào việc có chiếm đoạt được tài sản hay không.
  • Về mặt lỗi: Hành vi dược thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp;
  • Về mặt khách thể bị xâm phạm: Hành vi của con trai bạn đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước và quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bố mẹ cháu B.

Như vậy, hành vi của con trai bạn có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội Cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ Luật hình sự năm 2015.

  1. Về hình phạt đối với tội cưỡng đoạt tài sản

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ Luật hình sự năm 2015 thì con trai bạn nếu phạm tội có thể bị phạt tù từ 01 – 05 năm.

Ngoài khung hình phạt chính nêu trên thì con trai bạn còn có thể bị áp dụng khung hình phạt bổ sung là: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại khoản 4 Điều 170 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Lưu ý: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Căn cứ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được coi là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Do đó, việc con trai bạn thành khẩn khai báo, tích cực hợp tác với các cơ quan điều tra sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

  1. Về điều kiện hưởng án treo

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự thì Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

  • Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
  •  Có nhân thân tốt:
  • Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
  • Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
  • Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

  • Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
  • Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
  • Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
  • Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Bên cạnh đó, chồng bạn còn phải không thuộc trường hợp không được hưởng án treo theo quy định tại khoản 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018, cụ thể:

  • Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
  • Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã;
  • Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo;
  • Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi;
  • Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi;
  • Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Như vậy, nếu chồng bạn đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên thì có thể được hưởng án treo theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy hành vi của con trai bạn đã đủ yếu tố cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại Điều 170 Bộ Luật hình sự năm 2015. Việc áp dụng khung hình phạt đối với hành vi vi phạm của chồng bạn căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà chồng bạn được áp dụng theo quy định của pháp luật.

Trên đây là giải đáp của Luật sư liên quan đến câu hỏi của bạn. Nếu có thắc mắc gì, đề nghị bạn liên hệ với chúng tôi.

TÌNH HUỐNG VỀ HÀNH VI SỬ DỤNG KHÔNG HỢP PHÁP HÓA ĐƠN, CHỨNG TỪ

Tình huống: Thưa Luật sư, doanh nghiệp tôi kinh doanh thiết bị vệ sinh nhập […]

XEM THÊM
VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC TRIỆU TẬP HỌP ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG

Tình huống: Thưa Luật sư, chúng tôi là Công ty cổ phần mới thành lập […]

XEM THÊM
TÌNH HUỐNG VỀ VIỆC GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ HỮU TRÍ TUỆ (NHÃN HIỆU)

Câu hỏi: Thưa Luật sư, tôi và 03 người bạn đang có ý định góp […]

XEM THÊM