Tình huống: Thưa Luật sư, hiện nay các cư dân tòa nhà chúng tôi đang có tranh chấp với Chủ đầu tư liên quan đến việc chủ đầu tư chậm bàn giao căn hộ, chúng tôi dự định tổ chức dán băng rôn, khẩu hiệu vào sườn xe để diễu hành ngoài phố, yêu cầu Chủ đầu tư bàn giao căn hộ và bồi thường thiệt hại, vậy cư dân cần thiết phải lưu ý những nội dung gì để thực hiện đúng trong khuôn khổ pháp luật.
Trả lời:
Về vấn đề này, chúng tôi trả lời tới các cư dân như sau:
1. Trường hợp muốn tạo hiệu ứng bằng hình thức tập trung đông người, cho các xe dán băng rôn diễu hành ngoài đường, người dân có thể đăng ký về việc tập trung đông người tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Theo quy định tại Điều 25 Hiến pháp 2013 thì công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.
Để thực hiện đúng quy định pháp luật, tránh bị xử phạt vi phạm hành chính, người dân có thể tiến hành đăng ký về việc tập trung đông người ở nơi công cộng tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 38/2005/NĐ-CP:“Việc tập trung đông người ở nơi công cộng phải đăng ký trước với Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền nơi diễn ra các hoạt động đó và phải thực hiện đúng nội dung đã đăng ký”, cụ thể:
1.1. Về thẩm quyền: Theo quy định tại điểm 4 Thông tư số 09/2005/TT-BCA thì mọi hoạt động tập trung đông người ở nơi công cộng đều phải đăng ký trước với Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng dẫn tại điểm 6 Thông tư này, theo đó:
– Trường hợp hoạt động tập trung đông người ở nơi công cộng chỉ diễn ra trong phạm vi một huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (dưới đây gọi chung là cấp huyện) thì phải đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi dự kiến sẽ diễn ra các hoạt động đó.
– Trường hợp hoạt động tập trung đông người ở nơi công cộng diễn ra trong phạm vi nhiều huyện hoặc chỉ trong phạm vi một huyện, nhưng có người của nhiều huyện, nhiều tỉnh tham gia hoặc trường hợp người của tỉnh này sang tập trung đông người ở tỉnh khác thì phải đăng ký với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (dưới đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi dự kiến sẽ diễn ra các hoạt động đó.
1.2. Về thời gian tiến hành: Thời gian tiến hành các hoạt động đó chỉ được phép diễn ra trong khoảng thời gian từ 8 giờ đến 17 giờ hàng ngày, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (điểm 4 Thông tư số 09/2005/TT-BCA).
1.3. Về hồ sơ đăng ký: Hồ sơ đăng ký hoạt động tập trung đông người ở nơi công cộng bao gồm:
– Bản đăng ký hoạt động tập trung đông người ở nơi công cộng (theo mẫu số 01/ĐK kèm theo Thông tư số 09/2005/TT-BCA);
– Sơ yếu lý lịch của người đăng ký hoặc người đại diện cho tổ chức đăng ký hoạt động tập trung đông người ở nơi công cộng (theo mẫu số 02/SYLL kèm theo Thông tư số 09/2005/TT-BCA). Khi nộp hồ sơ đăng ký, phải xuất trình giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ khác có giá trị thay thế chứng minh nhân dân để đối chiếu.
1.4. Về thủ tục giải quyết:
Cán bộ tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu đầy đủ và hợp lệ thì tiếp nhận và viết giấy hẹn trả lời cho người nộp hồ sơ theo đúng thời hạn quy định.
– Trong thời hạn 7 ngày (không kể ngày thứ bảy, chủ nhật và các ngày nghỉ lễ, tết theo quy định), kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, xem xét toàn diện những vấn đề có liên quan đến việc bảo đảm an ninh, trật tự công cộng để quyết định việc cho phép hoặc không cho phép tiến hành các hoạt động đó và phải thông báo bằng văn bản cho người đã nộp hồ sơ đăng ký biết (theo mẫu số 03A/TB hoặc mẫu số 03B/TB kèm theo Thông tư số 09/2005/TT-BCA).
– Trong trường hợp có sự thay đổi, bổ sung về thời gian, địa điểm hoặc các nội dung khác đã đăng ký trong bản đăng ký hoạt động tập trung đông người ở nơi công cộng thì người đăng ký hoặc người đại diện cho tổ chức đăng ký hoạt động đó phải có văn bản đề nghị thay đổi, bổ sung gửi Ủy ban nhân dân nơi trước đó đã nộp hồ sơ đăng ký để xem xét, giải quyết; thời hạn, thủ tục, thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, bổ sung đó thực hiện theo quy định như đối với các trường hợp đăng ký ban đầu.
Lưu ý: Nội dung biểu ngữ, phát ngôn phải phù hợp quy định pháp luật, không có nội dung xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức.
2. Quá trình thực hiện việc cho xe diễu hành trong phố, tập trung đông người nhưng chưa tuân thủ các quy định pháp luật gây mất an ninh, trật tự thì tùy mức độ mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu trong quá trình thực hiện việc diễu hành, người không đảm bảo việc tuân thủ quy định pháp luật gây mất an ninh, trật tự, người dân có thể phải chịu trách nhiệm, cụ thể:
2.1. Về trách nhiệm hành chính
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 38/2005/NĐ-CP thì tập trung đông người trái với quy định của pháp luật ở lòng đường, vỉa hè, trước trụ sở cơ quan, tổ chức, tại khu vực đang diễn ra các hội nghị quốc tế, kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc các hoạt động chính trị quan trọng khác của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội hoặc nơi công cộng khác là hành vi bị nghiêm cấm.
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 38/2005/NĐ-CP, việc tập trung đông người ở nơi công cộng phải đăng ký trước với Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền nơi diễn ra các hoạt động đó và phải thực hiện đúng nội dung đã đăng ký.
Như vậy, trường hợp người dân tiến hành tập trung đông người trái pháp luật tại nơi công cộng hoặc các địa điểm, khu vực cấm thì sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo quy định tại điểm i khoản 3 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
Ngoài ra, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì hành vi tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng có thể bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
2.2. Về trách nhiệm hình sự (có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng)
Theo quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội gây rối trật tự công cộng thì:
“1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;
c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
d) Xúi giục người khác gây rối;
đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
e) Tái phạm nguy hiểm”
Như vậy, trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi treo băng rôn, khẩu hiệu, tập trung đông người của các cá nhân cấu thành tội tội gây rối trật tự công cộng thì các cá nhân thực hiện hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng theo quy định pháp luật.
Lưu ý, trong trường hợp người dân thực hiện việc diễu hành, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể đánh giá sai hành vi của người dân, cho rằng có vi phạm và tiến hành xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể: Hành vi tập trung đông người trái quy định pháp luật, tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng theo quy định tại Nghị định số 38/2005/NĐ-CP, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP như đã phân tích nêu trên hoặc/và các hành vi gây mất an toàn giao thông như: Điều khiển xe chạy tốc độ thấp hơn các xe khác đi cùng chiều mà không đi về bên phải phần đường xe chạy, trừ trường hợp các xe khác đi cùng chiều chạy quá tốc độ quy định; Dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe trái quy định gây ùn tắc giao thông; Không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông.
Như vậy, người dân có quyền thực hiện việc tập trông đông người, cho xe dán băng rôn diễu hành trong phố tuy nhiên phải đảm bảo thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, tránh bị xử phạt vi phạm hành chính.
Tình huống: Thưa Luật sư, doanh nghiệp tôi kinh doanh thiết bị vệ sinh nhập […]
XEM THÊMTình huống: Thưa Luật sư, chúng tôi là Công ty cổ phần mới thành lập […]
XEM THÊMCâu hỏi: Chúng tôi là Công ty cổ phần thành lập năm 2008 với 7 […]
XEM THÊMCâu hỏi: Thưa Luật sư, tôi và 03 người bạn đang có ý định góp […]
XEM THÊM