Tình huống về livestream xúc phạm

Tình huống về livestream xúc phạm

Ngày Đăng: 21 Tháng 1, 2022

Tình huống:

Thưa Luật sư, tôi bị bà A livestream trên mạng xã hội Facebook cố ý loan truyền những thông tin không đúng sự thật về mình, công kích, nói xấu, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của tôi khiến cho bạn bè, người thân của tôi hiểu nhầm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của tôi và gia đình. Vậy tôi có thể tố giác người này ra cơ quan công an vì phạm tội vu khống hay không?

Cảm ơn Luật sư.

Trả lời:

Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi có tư vấn như sau:

Theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội Vu khống thì: vu khống là hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:

Thứ nhất, mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội này được thể hiện qua các hành vi sau đây:

– Hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Hành vi này thể hiện qua việc người phạm tội đã tự đặt ra và loan truyền những điều không đúng với sự thật và có nội dung xuyên tạc để xúc phạm đến danh dự của người khác hoặc để gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Hình thức đưa ra những thông tin nói trên có thể dưới những dạng khác nhau như: nói trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc qua các phương thức khác (nhắn tin qua điện thoại di động)…

– Hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Hành vi này được thể hiện qua việc ngưòi phạm tội tuy không tự đưa ra những thông tin không đúng sự thật và có nội dung xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự, uy tín người khác nhưng biết rõ điều đó là bịa đặt (việc biết rõ điều mình loan truyền là bịa đặt là dấu hiệu bắt buộc) nhưng vẫn loan truyền điều bịa đặt đó cho người khác. Việc loan truyền này có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như: sao chép làm nhiều bản gửi đi nhiều nơi, kể lại cho người khác nghe, đăng tin, bài trên các phương tiện thông tin đại chúng…

– Hành vi bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

Đây là dạng hành vi đặc biệt của hành vi phạm tội vu khống. Là hành vi tố cáo trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Công an, Viện kiểm sát…) về một tội phạm xảy ra và người thực hiện tội phạm mà hoàn toàn không có thực (tự mình bịa ra rằng người khác có hành vi thực hiện một tội phạm nào đó mặc dù thực tế người này không phải là người thực hiện những hành vi phạm tội đó). Trong trường hợp này, người phạm tội và biết rõ người mình tố giác không có hành vi phạm tội nhưng vẫn tố giác họ.

Người phạm tội có thể thực hiện thực hiện hành vi phạm tội qua hình thức: tố giác bằng miệng hoặc gửi đơn tố giác tội phạm tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Về phía người bị hại – người bị vu khống phải là công dân (con người cụ thể) chứ không phải là pháp nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Người bị hại có thể bị xúc phạm danh dự, cũng có thể bị thiệt hại về tài sản hoặc những thiệt hại khác về tinh thần, về sức khoẻ… nhưng chủ yếu là thiệt hại về tinh thần (danh dự).

Người phạm tội vu khống thuộc quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người bị hại có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Thứ hai, mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết những thông tin mình đưa ra là không đúng sự thật nhưng đã thực hiện nhằm đạt được mục đích xúc phạm danh dự hoặc nhằm gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Thứ ba, khách thể của tội phạm

Công dân Việt Nam có quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được pháp luật bảo về về tài sản, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Hành vi phạm tội vu khống xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác.

Thứ tư, chủ thể của tội vu khống

Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. Người từ 14 đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm về hành vi này do không thuộc trường hợp quy định tại Điểu 12 Bộ luật Hình sự về các hành vi mà người ở độ tuổi này phải chịu trách nhiệm.

Đối chiếu với vụ việc của bạn, bà A đã có hành vi loan truyền thông tin không đúng sự thật về bạn nhằm mục đích xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn. Việc loan truyền này được bà A thực hiện với lỗi cố ý, thông qua phương tiện thông tin đại chúng – Livestream Facebook.

Mặt khác, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Điều 144 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định:

“1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền…

  1. Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
  2. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”

Theo đó, tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân nhằm góp phần giữ gìn an ninh trật tự xã hội, phòng ngừa vi phạm pháp luật và đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, người nào cố ý tố giác về tội phạm sai sự thật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Căn cứ khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC  ngày 29/12/2017 của Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao liên tịch quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác về tội phạm bao gồm :

– Cơ quan điều tra;

– Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

– Viện kiểm sát các cấp;

– Các cơ quan, tổ chức khác như: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.

Do đó, trường hợp bạn có đủ căn cứ chứng minh hành vi của bà A có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì bạn có thể tố giác hành vi phạm tội của bà A tới cơ quan công an có thẩm quyền.

Trên đây là giải đáp của Luật sư liên quan đến câu hỏi của bạn. Nếu có thắc mắc gì, đề nghị bạn liên hệ với chúng tôi.

NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CHẾ ĐỘ MỘT VỢ, MỘT CHỒNG

1. Các yếu tố cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

1. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về bảo vệ động […]

XEM THÊM
NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội tham ô tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM