So sánh Luật Sở hữu trí tuệ với Luật SHTT về nội dung quyền đối với giống cây trồng

Nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật trong nước để thực thi Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới, đồng thời để bảo đảm tính ổn định, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 25/6/2019, Văn phòng Quốc hội đã ban hành Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ. Luật này đã sửa đổi, bổ sung một số quy định mới so với Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về nội dung giống cây trổng, cụ thể:

1. Về đối tượng được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng

Theo quy định tại khoản 2 Điều 157 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng là:

– Tổ chức, cá nhân Việt Nam;

– Tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc nước có ký kết với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng;

– Tổ chức, cá nhân nước ngoài có trụ sở, địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam.

Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ do Văn phòng Quốc hội ban hành, ngoài các đối tượng nêu trên đã bổ sung thêm đối tượng được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng là: Tổ chức, cá nhân nước ngoài có trụ sở, địa chỉ thường trú hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại nước có ký kết với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thoả thuận về bảo hộ giống cây trồng.

Việc Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 bổ sung thêm đối tượng này là một bước tiến vượt bậc, phù hợp với Văn kiện năm 1991 Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (Thông qua ngày 02.12.1961, được sửa đổi tại Giơnevơ ngày 10.11.1972, 23.10.1978 và 19.3.1991), nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước có ký kết về bảo hộ giống cây trồng với Việt Nam.

2. Về tính khác biệt của giống cây trồng

Theo Khoản 1 Điều 160 Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung 2019) thì “1. Giống cây trồng được coi là có tính khác biệt nếu có khả năng phân biệt rõ ràng với các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi tại thời điểm nộp đơn hoặc ngày ưu tiên nếu đơn được hưởng quyền ưu tiên.”

Theo đó, khoản 2 Điều 160 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định:

“2. Giống cây trồng được biết đến rộng rãi quy định tại khoản 1 Điều này là giống cây trồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Giống cây trồng mà vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm thu hoạch của giống đó đã được sử dụng một cách rộng rãi trên thị trường ở bất kỳ quốc gia nào tại thời điểm nộp đơn đăng ký bảo hộ;

b) Giống cây trồng đã được bảo hộ hoặc được đăng ký vào Danh mục loài cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào;

c) Giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký bảo hộ hoặc được đăng ký vào Danh mục loài cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơn này không bị từ chối;

d) Giống cây trồng mà bản mô tả chi tiết của giống đó đã được công bố”.

Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 đã sửa đổi các điểm a, b, c và bãi bỏ điểm d khoản 2 Điều 160 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 như sau:

“2. Giống cây trồng được biết đến rộng rãi quy định tại khoản 1 Điều này là giống cây trồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Giống cây trồng mà vật liệu nhân giống hoặc vật liệu thu hoạch của giống đó được sử dụng một cách rộng rãi trên thị trường ở bất kỳ quốc gia nào tại thời điểm nộp đơn đăng ký bảo hộ;

b) Giống cây trồng đã được bảo hộ hoặc đưa vào Danh mục giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào;

c) Giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký bảo hộ hoặc đơn đăng ký vào Danh mục giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơn này không bị từ chối.”

Như vậy, theo quy định tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 thì chỉ cần giống cây trồng là đối tượng trong đơn đăng ký vào Danh mục giống cây trồng ở bất kỳ quốc gia nào, nếu các đơn này không bị từ chối thì thuộc trường hợp giống cây trồng được biết đến rộng rãi. Việc sửa đổi các điểm a, b, c và bãi bỏ điểm d khoản 2 Điều 160 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 là cần thiết, đảm bảo tính thống nhất trong việc xác định các loại giống cây trồng đã được biết đến rộng rãi nhằm đánh giá tính khác biệt của giống cây trồng mới.

3. Về tên của giống cây trồng

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 163 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 tên của giống cây trồng được quy định như sau:

“1. Người đăng ký phải đề xuất một tên phù hợp cho giống cây trồng với cùng một tên như tên đã đăng ký ở bất kỳ quốc gia nào khi nộp đơn đăng ký bảo hộ.

3. Tên của giống cây trồng không được coi là phù hợp trong các trường hợp sau đây:

a) Chỉ bao gồm các chữ số, trừ trường hợp chữ số liên quan đến đặc tính hoặc sự hình thành giống đó;

b) Vi phạm đạo đức xã hội;

c) Dễ gây hiểu nhầm về các đặc trưng, đặc tính của giống đó;

d) Dễ gây hiểu nhầm về danh tính của tác giả;

đ) Trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày công bố đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng;

e) Trùng hoặc tương tự với tên của sản phẩm thu hoạch từ giống cây trồng đó;

g) Ảnh hưởng đến quyền đã có trước của tổ chức, cá nhân khác.”

Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 đã sửa đổi khoản 1 và bãi bỏ điểm e khoản 3 Điều 163 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, cụ thể:

“1. Người đăng ký phải đề xuất một tên phù hợp cho giống cây trồng với cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng, tên đó phải trùng với tên đã đăng ký bảo hộ ở bất kỳ quốc gia nào có ký kết với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thỏa thuận về bảo hộ giống cây trồng.”

Việc sửa đổi khoản 1 Điều 163 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã thể hiện được chức năng, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng và mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia đã ký kết thỏa thuận về bảo hộ giống cây trồng với Việt Nam.

4. Về việc đăng ký quyền đối với giống cây trồng

Theo Điều 165 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì cách thức nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng được quy định cụ thể như sau:

“1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng (sau đây gọi là đơn đăng ký bảo hộ) trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.

2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài không có địa chỉ thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây trồng tại Việt Nam nộp đơn đăng ký bảo hộ thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.”

Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019, điều khoản này đã được sửa đổi, bổ sung như sau:

–   Sửa đổi nội dung Điều 165 thành: “Tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 157 của Luật này nộp đơn đăng ký quyền đối với giống cây trồng (sau đây gọi là đơn đăng ký bảo hộ) trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.”

–   Bổ sung một số nội dung:

+  Điều kiện để tổ chức được kinh doanh dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng với danh nghĩa tổ chức dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng (Khoản 2 Điều 165);

+  Điều kiện được phép hành nghề dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng (Khoản 4 Điều 165);

+ Điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện quyền đối với giống cây trồng (Khoản 5 Điều 165).

Như vậy, Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 đã bổ sung các nội dung trên để các cá nhân, tổ chức có thể lựa chọn cho mình các tổ chức, cá nhân đại diện quyền đối với giống cây trồng theo đúng quy định pháp luật.

5. Quyền của chủ bằng bảo hộ

Theo quy định tại Điều 186 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 chủ văn bằng bảo hộ có những quyền sau:

“1. Chủ bằng bảo hộ có quyền sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng các quyền sau đây liên quan đến vật liệu nhân giống của giống đã được bảo hộ:

a) Sản xuất hoặc nhân giống;

b) Chế biến nhằm mục đích nhân giống;

c) Chào hàng;

d) Bán hoặc thực hiện các hoạt động tiếp cận thị trường khác;

đ) Xuất khẩu;

e) Nhập khẩu;

g) Lưu giữ để thực hiện các hành vi quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản này.

2. Ngăn cấm người khác sử dụng giống cây trồng theo quy định tại Điều 188 của Luật này.

3. Để thừa kế, kế thừa quyền đối với giống cây trồng và chuyển giao quyền đối với giống cây trồng theo quy định tại Chương XV của Luật này.”

Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 đã bổ sung thêm nội dung về quyền của chủ bằng bảo hộ, cụ thể: “Quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng quy định tại khoản 1 Điều này được áp dụng đối với vật liệu thu hoạch thu được từ việc sử dụng bất hợp pháp vật liệu nhân giống của giống cây trồng được bảo hộ, trừ trường hợp chủ bằng bảo hộ đã có cơ hội hợp lý để thực hiện quyền của mình đối với vật liệu nhân giống nhưng không thực hiện” tại Khoản 2 Điều 186.

Như vậy, theo quy định bổ sung nêu trên thì chủ văn bằng bảo hộ không những có các quyền đối với vật liệu nhân giống của giống đã được bảo hộ mà còn có quyền đối với vật liệu thu hoạch thu được từ việc sử dụng bất hợp pháp vật liệu nhân giống của giống cây trồng được bảo hộ.

6. Mở rộng quyền của chủ bằng bảo hộ

Theo khoản 1 Điều 187 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì quyền của chủ bằng bảo hộ được mở rộng đối với các giống cây trồng sau đây:

“1. Giống cây trồng có nguồn gốc từ giống cây trồng được bảo hộ, trừ trường hợp giống cây trồng được bảo hộ có nguồn gốc từ một giống cây trồng đã được bảo hộ khác.

Giống cây trồng được coi là có nguồn gốc từ giống được bảo hộ nếu giống cây trồng đó vẫn giữ lại biểu hiện của các tính trạng chủ yếu thu được từ kiểu gen hoặc sự phối hợp các kiểu gen của giống được bảo hộ, trừ những khác biệt là kết quả của sự tác động vào giống được bảo hộ;”

Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 nội dung trên được sửa đổi như sau:

“Giống cây trồng có nguồn gốc chủ yếu từ giống cây trồng được bảo hộ, trừ trường hợp giống cây trồng được bảo hộ có nguồn gốc chủ yếu từ một giống cây trồng đã được bảo hộ khác.

Giống cây trồng được coi là có nguồn gốc chủ yếu từ giống được bảo hộ, nếu giống cây trồng đó vẫn giữ lại biểu hiện của các tính trạng thu được từ kiểu gen hoặc sự phối hợp các kiểu gen của giống được bảo hộ, trừ những tính trạng khác biệt là kết quả của sự tác động vào giống được bảo hộ;”

Như vậy, quy định này đã mở rộng quyền của chủ bằng bảo hộ đối với các giống cây trồng khi sửa đổi nội dung “Giống cây trồng có nguồn gốc từ giống cây trồng được bảo hộ” thành “Giống cây trồng có nguồn gốc chủ yếu từ giống cây trồng được bảo hộ”

7. Hạn chế quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng

Theo quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều 190 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì các hành vi sau đây không bị coi là xâm phạm quyền đối với giống cây trồng đã được bảo hộ:

“b) Sử dụng giống cây trồng nhằm mục đích lai tạo để nghiên cứu khoa học;

c) Sử dụng giống cây trồng để tạo ra giống cây trồng mới khác biệt với giống cây trồng đã được bảo hộ;”

Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019, điểm b, c khoản 1 Điều 190 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi như sau:

“b) Sử dụng giống cây trồng nhằm mục đích thử nghiệm;

c) Sử dụng giống cây trồng để tạo ra giống cây trồng khác, trừ trường hợp quy định tại Điều 187 của Luật này;”

Như vậy, theo quy định tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 thì hành vi sử dụng giống cây trồng nhằm mục đích thử nghiệm hoặc để tạo ra giống cây trồng khác không bị coi là hành vi xâm phạm quyền.

8. Chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng

Theo Điều 194 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì việc chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng được quy định như sau:

“1. Chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng là việc chủ bằng bảo hộ giống cây trồng chuyển giao toàn bộ quyền đối với giống cây trồng đó cho bên nhận chuyển nhượng. Bên nhận chuyển nhượng trở thành chủ bằng bảo hộ giống cây trồng kể từ ngày hợp đồng chuyển nhượng được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng theo thủ tục do pháp luật quy định.

2. Trường hợp quyền đối với giống cây trồng thuộc đồng sở hữu thì việc chuyển nhượng cho người khác phải được sự đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu.

3. Việc chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản.”

Tại Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH năm 2019 đã bổ sung khoản 4 Điều 194 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, cụ thể:

“4. Việc chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng tạo ra từ ngân sách nhà nước được thực hiện theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ.”

Việc bổ sung thêm nội dung này giúp các cá nhân, tổ chức hiểu rõ hơn về việc chuyển nhượng quyền đối với giống cây trồng tạo ra từ ngân sách nhà nước.

Như vậy, chúng ta có thể thấy việc sửa đổi các quy định pháp luật trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ góp phần đưa Sở hữu trí tuệ thành công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, là động lực của kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của đất nước.