Thời gian gần đây, trên các sàn giao dịch đầu tư đã xuất hiện các giao dịch mua bán, đầu tư… liên quan đến tiền ảo như: Bitcoin, Litecoin, Ethereum, AXS… Để có cái nhìn toàn diện về các quy định pháp luật có liên quan đến tiền ảo tại Việt Nam, cũng như những vấn đề cần lưu ý trong quá trình giao dịch tiền ảo, trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến “Quy định pháp luật Việt Nam về tiền ảo”, cụ thể như sau:
1. Quy định pháp luật về tiền ảo
Theo Chỉ thị (EU) 2018/843 năm 2018 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu, thuật ngữ “Tiền ảo” có nghĩa là một đại diện kỹ thuật số về giá trị không được phát hành hoặc bảo đảm bởi ngân hàng trung ương hoặc cơ quan công quyền, không nhất thiết phải gắn với một loại tiền tệ được thành lập hợp pháp và không có tư cách pháp lý của tiền tệ hoặc tiền, nhưng được các thể nhân hoặc pháp nhân chấp nhận như một phương tiện trao đổi và có thể được chuyển giao, lưu trữ và giao dịch điện tử.
Hiện tại, các quốc gia trên thế giới có quy định khác nhau về tiền ảo, có quốc gia cho phép, có quốc gia không cấm nhưng cũng không thừa nhận (như Việt Nam) và cũng có quốc gia hoàn toàn cấm tiền ảo. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng, đầy đủ điều chỉnh đối với tiền ảo, còn nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến tiền ảo được đặt ra vẫn chưa thể giải quyết. Tiền ảo đang nằm trong “khoảng trống pháp lý” khi không bị pháp luật cấm nhưng cũng không được pháp luật thừa nhận.
Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Công văn số 5747/NHNN-PC ngày 21/7/2017 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi Văn phòng Chính phủ thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quan điểm:
“– Khoản 2 Điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định: “Tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
– Khoản 6, 7 Điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về việc thanh toán không dùng tiền mặt (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định: “6. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. 7. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán không thuộc quy định tại khoản 6 Điều này.”
– Khoản 6 Điều 6 Nghị định 101/2012/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP) quy định về các hành vi bị cấm: “6. Phát hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp”.
Căn cứ quy định nêu trên, tiền ảo không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát hành, cung ứng và sử dụng tiền ảo (phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm. Chế tài xử lý hành vi này đã được quy định tại Nghị định số 88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 143/2021/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng và Bộ luật Hình sự 2015 (đã sửa đổi, bổ sung). Ngoài ra, về việc đầu tư vào tiền ảo, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cảnh báo nhiều lần việc đầu tư này tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho nhà đầu tư”.
Tại Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 11/04/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới tiền ảo đã khẳng định “Thời gian qua, các cơ quan quản lý đã đưa ra nhiều cảnh báo về rủi ro liên quan tới các loại tiền ảo (sau đây gọi tắt là tiền ảo), cũng như nguy cơ sử dụng tiền ảo cho hoạt động tội phạm (rửa tiền, tài trợ khủng bố, chuyển tiền bất hợp pháp, trốn thuế, lừa đảo…) vì tiền ảo có tính ẩn danh, hoạt động phân tán, không chịu sự quản lý của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Hoạt động đầu tư, mua bán tiền ảo, huy động vốn qua phát hành tiền ảo (ICO), đặc biệt là hoạt động sử dụng tiền ảo để huy động vốn theo phương thức đa cấp ngày càng diễn biến phức tạp, có nguy cơ ảnh hưởng đến sự ổn định của thị trường tài chính, trật tự an toàn xã hội và có thể gây rủi ro rất lớn đối với tổ chức, cá nhân tham gia”.
Đồng thời, theo quy định tại Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 13/4/2018 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về các biện pháp tăng cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên quan đến tiền ảo quy định: “Thực hiện Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 11/04/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác (sau đây gọi tắt là tiền ảo), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các đơn vị tại trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức tín dụng); các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán nghiêm túc thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường kiểm soát, xử lý các giao dịch liên quan tới tiền ảo…”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên thì có thể thấy tiền ảo là loại tiền có tính ẩn danh, hoạt động phân tán, không chịu sự quản lý của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào và không phải là tiền tệ, không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Trước thực tế xuất hiện ngày càng nhiều các giao dịch về tiền ảo, ngày 12/11/2021 Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 2146/QĐ-BTC về việc ban hành kế hoạch tổng thể thực hiện các giải pháp tại đề án “Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam”, theo đó có nội dung xây dựng cơ sở pháp lý về tiền ảo. Bộ Tài chính giao Uỷ ban chứng khoán Nhà nước phối hợp với Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước để xây dựng cơ sở pháp lý cho việc quản lý tiền ảo phù hợp thông lệ quốc tế để tránh những vấn đề về trốn thuế, rửa tiền thuế, đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc quản lý đối với tiền ảo. Việc ban hành quy định về quản lý tiền ảo sẽ là căn cứ pháp lý để các cá nhân, tổ chức tiến hành tham gia giao dịch tiền ảo, tạo điều kiện cho giao dịch tiền ảo phát triển tại Việt Nam.
2. Chế tài xử phạt trong trường hợp sử dụng tiền ảo như một phương tiện thanh toán
Như nội dung chúng tôi đã phân tích tại mục 1 thì tiền ảo nói chung và AXS không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Do đó, việc sử dụng tiền ảo như một phương thức thanh toán, để mua, bán các tài sản khác là hành vi vi phạm quy định pháp luật. Trong trường hợp này, cá nhân, tổ chức có hành vi sử dụng tiền ảo để thực hiện giao dịch mua, bán các tài sản khác thì có thể sẽ đối mặt với rủi ro pháp lý như sau:
– Bị xử phạt vi phạm hành chính
Theo quy định tại điểm d khoản 15 Điều 1 Nghị định 143/2021/NĐ-CP có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022 thì trường hợp sử dụng tiền ảo để thanh toán các giao dịch thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi “Phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
– Bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Trường hợp các Cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: h) Phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả”.
Như vậy, việc sử dụng tiền ảo như một phương tiện thanh toán tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho hệ thống tài chính, an ninh kinh tế và Pháp luật Việt Nam cũng đã có nhiều cảnh báo rủi ro đối với hoạt động này.
Do đó, cần cẩn trọng trong việc thực hiện các giao dịch có liên quan đến tiền ảo.
Tình huống: Thưa Luật sư, doanh nghiệp tôi kinh doanh thiết bị vệ sinh nhập […]
XEM THÊMTình huống: Thưa Luật sư, chúng tôi là Công ty cổ phần mới thành lập […]
XEM THÊMCâu hỏi: Chúng tôi là Công ty cổ phần thành lập năm 2008 với 7 […]
XEM THÊMCâu hỏi: Thưa Luật sư, tôi và 03 người bạn đang có ý định góp […]
XEM THÊM