Quy định pháp luật về tội vu khống

Quy định pháp luật về tội vu khống

Ngày Đăng: 26 Tháng 7, 2021

1. Các yếu tố cấu thành tội vu khống

Căn cứ khoản 1 Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì vu khống là hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:

  • Về mặt khách quan của tội phạm

Thứ nhất, mặt khách quan của tội này được thể hiện qua các hành vi sau đây:

  • Hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

   Hành vi này thể hiện qua việc người phạm tội đã tự đặt ra và loan truyền những điều không đúng với sự thật và có nội dung xuyên tạc để xúc phạm đến danh dự của người khác hoặc để gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Hình thức đưa ra những thông tin nói trên có thể dưới những dạng khác nhau như: nói trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc qua các phương thức khác: nhắn tin qua điện thoại di động…

  • Hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

   Hành vi này được thể hiện qua việc người phạm tội tuy không tự đưa ra những thông tin không đúng sự thật và có nội dung xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự, uy tín người khác nhưng biết rõ điều đó là bịa đặt (việc biết rõ điều mình loan truyền là bịa đặt là dấu hiệu bắt buộc) nhưng vẫn loan truyền điều bịa đặt đó cho người khác. Việc loan truyền này có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như: sao chép làm nhiều bản gửi đi nhiều nơi, kể lại cho người khác nghe, đăng tin, bài trên các phương tiện thông tin đại chúng…

  • Hành vi bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

   Đây là dạng hành vi đặc biệt của hành vi phạm tội vu khống. Là hành vi tố cáo trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Công an, Viện kiểm sát…) về một tội phạm xảy ra và người thực hiện tội phạm mà hoàn toàn không có thực (tự mình bịa ra rằng người khác có hành vi thực hiện một tội phạm nào đó mặc dù thực tế người này không phải là người thực hiện những hành vi phạm tội đó). Trong trường hợp này, người phạm tội biết rõ người mình tố giác không có hành vi phạm tội nhưng vẫn tố giác họ.

Người phạm tội có thể thực hiện hành vi phạm tội qua hình thức: tố giác bằng miệng hoặc gửi đơn tố giác tội phạm tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Về phía người bị hại – người bị vu khống phải là công dân (con người cụ thể) chứ không phải là pháp nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Người bị hại có thể bị xúc phạm danh dự, cũng có thể bị thiệt hại về tài sản hoặc những thiệt hại khác về tinh thần, về sức khoẻ… nhưng chủ yếu là thiệt hại về tinh thần (danh dự).

Thứ hai, hậu quả của hành vi vu khống

Vu khống người khác gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, làm cho họ nhục nhã, xấu hổ trước nhiều người hoặc trở thành người bị tình nghi phạm tội, làm cho uy tín hay danh dự mà họ bị ảnh hưởng, từ đó, ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của họ.

Người phạm tội vu khống thuộc quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người bị hại có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

  • Về mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết những thông tin mình đưa ra là không đúng sự thật nhưng đã thực hiện nhằm đạt được mục đích xúc phạm danh dự hoặc nhằm gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

Người thực hiện hành vi vu khống người khác thường xuất phát từ động cơ là sự thù hằn, ganh ghét hay những mâu thuẫn giữa người này với người bị vu khống, hoặc xuất phát từ những tổn thương mà người bị vu khống đã gây ra cho người thực hiện hành vi vu khống.

  • Về khách thể của tội phạm

Công dân Việt Nam có quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được pháp luật bảo về về tài sản, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Hành vi phạm tội vu khống xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác.

  • Về chủ thể của tội vu khống

Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. Người từ 14 đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm về hành vi này do không thuộc trường hợp quy định tại Điểu 12 Bộ luật Hình sự về các hành vi mà người ở độ tuổi này phải chịu trách nhiệm.

Như vậy, người được xác định là có hành vi phạm tội vu khống phải thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành nêu trên.

2. Hình phạt đối với tội vu khống

Căn cứ Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt đối với tội vu khống được bao gồm 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:

– Khung hình phạt cơ bản có mức hình phạt là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Mức hình phạt này được áp dụng chung đối với những người đã có hành vi vu khống, thể hiện ở việc bịa đặt, loan truyền những thông tin sai sự thật, không có cơ sở về người khác nhằm mục đích để xúc phạm đến danh sự, nhân phẩm của họ một cách nghiêm trọng hoặc nhằm mục đích gây thiệt hại đến quyền lợi của họ. Hoặc áp dụng trong trường hợp họ bịa đặt, tố cáo người khác lên cơ quan thẩm quyền rằng một người phạm tội mà không có bất kỳ cơ sở nào.

– Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 01 năm đến 03 năm được áp dụng đối với trường hợp người phạm tội cũng thực hiện hành vi “vu khống” như trên nhưng có thêm các tình tiết như:

+ Có tổ chức;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Đối với 02 người trở lên;

+ Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

+ Đối với người đang thi hành công vụ;

+ Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

+ Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

– Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

+ (Phạm tội) Vì động cơ đê hèn;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

+ Làm nạn nhân tự sát

– Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

3. Một số điểm mới Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội Vu khống

3.1. Về hình phạt thì có những điểm mới sau:

  • Thay hình phạt cảnh cáo bằng hình phạt tiền làm hình phạt chính;
  • Giảm mức phạt tù cao nhất (phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm, trước đây mức phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm) đối với Giảm khung hình phạt đối với các trường hợp phạm tội do thực hiện hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
  • Giảm khung hình phạt (phạt tù từ 01 năm đến 03 năm thay vì mức phạt tù từ 01 năm đến 07 năm theo Bộ luật Hình sự năm 1999) đối với các trường hợp phạm tội sau:

+ (Phạm tội) Có tổ chức;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn (khi phạm tội);

+ (Phạm tội) Đối với 02 người trở lên;

+ (Phạm tội) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

+ (Phạm tội) Đối với người đang thi hành công vụ;

+ Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

+ Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

  • Tăng mức phạt tiền đối với hình phạt bổ sung: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (thay vì mức phạt tiền từ 01 triệu đến 10 triệu đồng như trước đây).

Như vậy, căn cứ vào quy định trên thì hình phạt áp dụng với người phạm tội vu khống có xu hướng giảm nhẹ so với quy định tại Điều 122 Bộ Luật hình sự 1999. Từ đó cho thấy quy định này thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự, mục đích của hình phạt không chỉ để trừng trị mà còn nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội.

3.2. Bổ sung tình tiết định khung sau:

  • Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
  • Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
  • (Phạm tội) Vì động cơ đê hèn;
  • Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
  • Làm nạn nhân tự sát

Những sửa đổi, bổ sung nêu trên là cần thiết, đặc biệt trong thời điểm hiện nay, khi tình trạng trạng bịa đặt, loan truyền thông tin sai lệch gây tổn hại danh dự, nhân phẩm của người khác ngày càng nhiều và đặc biệt được thực hiện dưới nhiều hình thức hơn như thông qua mạng máy tính, phương tiện điện tử có thể loan truyền nhanh và diện rộng lớn gây thiệt hại nghiêm trọng cho nhân phẩm, danh dự hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CHẾ ĐỘ MỘT VỢ, MỘT CHỒNG

1. Các yếu tố cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

1. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về bảo vệ động […]

XEM THÊM
NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội tham ô tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM