Quy định pháp luật về tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức

Quy định pháp luật về tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức

Ngày Đăng: 8 Tháng 2, 2022

1. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp

Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, bổ sung nhiều tội phạm mới, trong đó có tội Vi phạm quy định về kinh doanh đa cấp.

Căn cứ quy định tại Điều 217a Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì vi phạm quy định về kinh doanh đa cấp được hiểu là hành vi tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hoặc không đúng với nội dung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:

1.1. Về mặt khách quan của tội phạm

Thứ nhất, có hành vi tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp

Căn cứ theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 thì Hoạt động bán hàng đa cấp phải được đăng ký theo quy định của Nghị định này.

Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 40/2018/NĐ-CP thì Doanh nghiệp đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp nộp 01 bộ hồ sơ theo quy định tới Bộ Công Thương. Trường hợp hồ sơ của doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện quy định tại Nghị định này, Bộ Công Thương sẽ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp.

Như vậy, hành vi tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp là doanh nghiệp không được Bộ Công Thương cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định nêu trên nhưng doanh nghiệp vẫn tiến hành tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp.

Thứ hai, có hành vi tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp không đúng với nội dung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp

Tổ chức hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp không đúng với nội dung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp là trường hợp doanh nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp nhưng trong quá tình hoạt động lại có những hành vi không đúng với những nội dung trong Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, thể hiện ở một số hành vi như:

+ Yêu cầu người khác phải đặt cọc hoặc nộp một khoản tiền nhất định để được ký hợp đồng tham gia BHĐC;

+ Yêu cầu người khác phải mua một số lượng hàng hóa nhất định để được ký hợp đồng tham gia BHĐC;

+ Cho người tham gia BHĐC nhận tiền hoặc lợi ích kinh tế khác từ việc giới thiệu người khác tham gia vào hoạt động BHĐC mà không phải từ việc mua, bán hàng hóa của người được giới thiệu đó;

+ Từ chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay lợi ích kinh tế khác mà người tham gia BHĐC có quyền hưởng;

+ Cung cấp thông tin gian dối về kế hoạch trả thưởng, về lợi ích của việc tham gia mạng lưới BHĐC;

+ Cung cấp thông tin gian dối, gây nhầm lẫn về tính năng, công dụng của hàng hóa hoặc hoạt động của doanh nghiệp thông qua báo cáo viên, đào tạo viên tại hội nghị, hội thảo, đào tạo hoặc thông qua tài liệu của doanh nghiệp…

Thứ ba, về hậu quả của tội phạm

Theo Điều 217a Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì người thực hiện một trong các hành vi trên chỉ cấu thành tội phạm khi thuộc một trong các trường hợp sau:

– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

– Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

– Gây thiệt hại cho người khác từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi với hậu quả: các hành vi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả như những khoản lợi nhuận bất chính mà doanh nghiệp đa cấp thu được hoặc các thiệt hại về tài sản. Mối quan hệ này được thể hiện bằng các dấu hiệu như:

– Hành vi kinh doanh đa cấp mà không có giấy chứng nhận hoặc không đúng với nội dung của giấy chứng nhận phải xảy ra trước khi thu được lợi nhuận bất chính hoặc trước khi thiệt hại cho người tham gia xảy ra.

– Các hành vi vi phạm quy định về kinh doanh đa cấp chứa đựng khả năng gây ra hậu quả. Ví dụ như hành vi thu tiền đặt cọc của người tham gia vào BHĐC chứa đựng khả năng doanh nghiệp chiếm đoạt tài sản của người khác.

– Những hậu quả nói trên phải phát sinh từ chính hành vi kinh doanh đa cấp mà không có giấy chứng nhận hoặc không đúng với nội dung của giấy chứng nhận.

1.2. Về khách thể của tội phạm

Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp xâm phạm đến chế độ quản lí của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp của các tổ chức, cá nhân. Hành vi này có thể khiến cơ quan quản lí thị trường không thể nắm rõ tình trạng hoạt động của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp và có cơ chế kiểm soát thích hợp. Đồng thời, hành vi này còn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những cá nhân, tổ chức tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp.

1.3. Về mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được rõ quy định của pháp luật yêu cầu các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp phải có Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp nhưng các doanh nghiệp vẫn không đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc việc doanh nghiệp dù đã có Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp nhưng lại làm trái với nội dung trong Giấy chứng nhận đó là hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích của hành vi phạm tội này là nhằm thu được những lợi ích nhất định mà chủ yếu là lợi ích về vật chất.

1.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

2. Hình phạt đối với tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp

Căn cứ Điều 217a Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì hình phạt đối với tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp bao gồm 02 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung:

– Khung hình phạt cơ bản: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+  Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

+  Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

+  Gây thiệt hại cho người khác từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

–   Khung hình phạt tăng nặng: phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm nếu hành vi phạm tội có một trong số những tình tiết tăng nặng sau:

+  Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên;

+  Gây thiệt hại cho người khác 1.500.000.000 đồng trở lên;

+  Quy mô mạng lưới người tham gia 100 người trở lên.

–   Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

3. Ý nghĩa của việc quy định tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp là một trong những tội thuộc các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định hoàn toàn mới tại Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Việc Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định loại tội phạm này là cần thiết bởi:

Thứ nhất, kinh doanh đa cấp là hình thức kinh doanh xuất hiện khá lâu trên thế giới và khi vào Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, tuy nhiên trong những năm gần đây hình thức kinh doanh đa cấp đã có nhiều biến tướng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tình hình vi phạm pháp luật về kinh doanh theo phương thức đa cấp diễn ra ngày càng nhiều và mức độ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân ngày một lớn, đây là một vấn nạn lớn trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp.

Thứ hai, trước đó chưa có quy định cụ thể về tội phạm liên quan đến hoạt động này nên các cơ quan tố tụng thường quy kết hoạt động đó vào hai tội danh chủ yếu là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, việc này là khá khiên cưỡng và không phản ánh đúng bản chất vụ việc.

Thứ ba, trước khi có tội danh này, hành vi vi phạm quy định của pháp luật về kinh doanh theo phương thức đa cấp chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính dẫn đến việc không đủ tính răn đe nên việc vi phạm vẫn tiếp tục với tính chất phức tạp và tinh vi hơn. Do đó, việc quy định tội danh mới này đã tạo ra một hành lang pháp lí phù hợp để xử lí kịp thời, chính xác những hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp.

Do đó, có thể khẳng định rằng Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định bổ sung về Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp phù hợp với công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nói riêng và tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung tại nước ta, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.

NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CHẾ ĐỘ MỘT VỢ, MỘT CHỒNG

1. Các yếu tố cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

1. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về bảo vệ động […]

XEM THÊM
NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội tham ô tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM