QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Căn cứ quy định tại Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là tội phạm thực hiện hành vi trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức thông qua việc sử dụng công vụ là mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; xâm hại trật tự an toàn công cộng, cụ thể:
1. Các yếu tố cấu thành tội phạm
1.1. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm: người phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử như một công cụ để thực hiện một trong các hành vi sau:
Thứ nhất, hành vi sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ, chủ tài khoản hoặc thanh toán dịch vụ, mua hàng hóa. Hành vi được thực hiện thông qua các thủ đoạn như trộm cắp, lừa đảo để có được thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của người khác, sau đó dùng thông tin đó để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản.
Ví dụ: Kẻ phạm tội gửi email giả mạo, lừa đảo hoặc cài phần mềm gián điệp như phần mềm keylogger (ghi lại mọi thao tác của người dùng thẻ, tài khoản trên máy)… để có được thông tin, mật khẩu. Sau đó, sử dụng thông tin có được để chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ.
Thứ hai, hành vi làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ. Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ. Thẻ ngân hàng giả là thẻ không do ngân hàng có thẩm quyền phát hành thẻ đó phát hành. Làm thẻ ngân hàng giả là việc cá nhân không có thẩm quyền sản xuất, phát hành thẻ ngân hàng nhưng sản xuất giống như thẻ ngân hàng (trong đó chứa đựng thông tin, dữ liệu như thẻ của ngân hàng phát hành).
Thủ đoạn phạm tội thường là người phạm tội mua thẻ nhựa trắng, mua hoặc đánh cắp thông tin thẻ, mật mã giao dịch. Sau đó dùng máy ghi thẻ để sản xuất thẻ giả, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ giả để chiếm đoạt tài sản của người khác. Hoặc dùng thẻ ngân hàng của nước ngoài đã hết hạn sử dụng vào nước khác để rút tiền…
Thứ ba, hành vi truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản. Đó là hành vi vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc các phương thức khác truy cập bất hợp pháp vào của cơ quan, tổ chức nhằm chiếm đoạt tài sản (trực tiếp) của chủ thẻ đó.
Thứ tư, hành vi lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản. Kẻ phạm tội đưa ra các thông tin gian dối trong các lĩnh vực trên nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý tài sản, làm họ tưởng thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó.
Ví dụ: kẻ phạm tội tạo dựng một website để huy động vốn theo kiểu kinh doanh đa cấp (như www.e-invest.com đã bị sập), giả danh các tập đoàn tài chính toàn cầu, huy động vốn với lãi suất cao, sau đó chiếm đoạt tiền của người góp vốn hoặc bán hàng qua mạng nhưng không giao hàng hoặc giao hàng không đúng…
Thứ năm, hành vi thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. Đó là việc thiết lập, cung cấp dịch vụ viễn thông, internet nhưng không được phép hoặc không đúng giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp nhằm chiếm đoạt tài sản.
Các hành vi trên chỉ cấu thành tội này khi không thuộc trường hợp tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 173 và Điều 174 BLHS năm 2015.
Hậu quả: Đây là loại tội phạm có cấu thành hình thức nên hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc của tội phạm, tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội có một trong các hành vi trên nhằm chiếm đoạt tài sản, không kể là đã chiếm được hay chưa
1.2. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, mục đích, động cơ phạm tội là tư lợi. Người phạm tội nhận thức được việc sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài sản của người khác là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả xảy ra nhưng vẫn thực hiện và mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác.
1.3. Khách thể của tội phạm
Tội phạm xâm phạm hoạt động bình thường trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông.
1.4. Chủ thể của tội phạm
Là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
2. Hình phạt đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Căn cứ theo quy định tại Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hình phạt đối với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được bao gồm 04 khung hình phạt chính và 01 hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
Khung 1: Theo Khoản 1 Điều 290 BLHS thì người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm khi có một trong các hành vi vi phạm như phân tích trên
Khung 2: Theo Khoản 2 Điều 290 BLHS thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; áp dụng đối với các trường hợp có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến 200 thẻ; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đến dưới 200.000.000đ ồng; gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; tái phạm nguy hiểm, cụ thể:
a) (Phạm tội) có tổ chức: Là trường hợp phạm tội có sự cấu kết chặt chẽ của những người đồng phạm. Sự cấu kết chặt chẽ tạo điều kiện cho những người phạm tội chuẩn bị, thực hiện và che dấu hành vi phạm tội.
b) (Phạm tội) có tính chất chuyên nghiệp: Là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn chuyên nghiệp, sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc có thể gây hậu quả nghiêm trọng khác để chiếm đoạt tài sản hoặc che giấu tội phạm (quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP).
c) Phạm tội 02 lần trở lên: Là trường hợp người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điều này từ 02 lần trở lên và mỗi hành vi đều cấu thành tội phạm, nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP);
d) Tái phạm nguy hiểm: Là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.
Khung 3: Theo Khoản 3 Điều 290 BLHS thì người phạm tội bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 VNĐ đến dưới 500.000.000 VNĐ;
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 VNĐ đến dưới 500.000.000 VNĐ;
c) Chiếm đoạt số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ.
Khung 4: Theo Khoản 4 Điều 290 BLHS thì người phạm tội bị phạt tù 12 năm đến 20 năm thuộc một trong các trường hợp:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 VNĐ trở lên;
b) Chiếm đoạt số lượng thẻ giả từ 500 thẻ trở lên.
Hình phạt bổ sung: Theo Khoản 5 Điều 290 BLHS thì ngoài những khung hình phạt chính nêu trên thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng khung hình phạt bổ sung là: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
3. Những điểm mới của tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản tại Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 2009
3.1 Sửa đổi tên điều luật từ “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 226b BLHS 2009) thành tội “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS 2015)
3.2. Về hình phạt
So với Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) vẫn tiếp tục giữ nguyên các khung hình phạt chính. Tuy nhiên, đối với hình phạt bổ sung, khoản 5 Điều 290 Bộ luật hình sự 2015 đã thay đổi mức phạt tiền “người phạm tội… có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” thành “người phạm tội… có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Như vậy, hình phạt bổ sung đối với tội phạm này đã được Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định mở rộng, phù hợp với thực tiễn, thể hiện được tính răn đe đối với người thực hiện hành vi phạm tội, đảm bảo việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt.
3.3. Về tình tiết định khung: Bổ sung thêm các tình tiết định khung
– Khung 1:
BLHS 2015 đã bỏ cụm từ “hoặc làm giả thẻ ngân hàng”, đồng thời bổ sung thêm cụm “chủ tài khoản” tại điểm a, khoản 1.
Bổ sung thêm hành vi phạm tội tại điểm b khoản 1 “Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ” và điểm đ khoản 1 “Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản”; đồng thời bỏ nội dung “hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
– Khung 2:
Bổ sung thêm các trường hợp phạm tội tăng nặng, cụ thể: Điểm d khoản 2 – số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ.
Sửa đổi tình tiết định khung “Phạm tội nhiều lần” thành “Phạm tội 02 lần trở lên” tại điểm b khoản 2.
Sửa tình tiết định khung “Gây hậu quả nghiêm trọng” thành “Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng” tại điểm e khoản 2.
– Khung 3:
Sửa đổi tình tiết định khung “Gây hậu quả nghiêm trọng” thành “Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng” (điểm b, khoản 3).
Bổ sung thêm tình tiết định khung: Số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ (điểm c khoản 3).
– Khung 4:
Sửa đổi tình tiết định khung “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” thành “Gây thiệt hại trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên” (điểm b, khoản 4).
Bổ sung thêm tình tiết định khung: Số lượng thẻ giả từ 500 thẻ trở lên (điểm d khoản 3).
3.4. Về hình phạt
– Khung 1: giảm hình phạt tù từ từ một năm đến năm năm xuống phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
– Khung 2: giảm hình phạt tù từ ba năm đến bảy năm xuống 02 năm đến 07 năm.
– Khung 4: Bỏ hình phạt tù chung thân.
Như vậy, việc bổ sung các tình tiết định khung nêu trên là vô cùng cần thiết góp phần làm giảm đáng kể tội phạm dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng đã giảm khung hình phạt cũng đã thể hiện sự nhân đạo của Bộ luật hình sự, bảo vệ những quyền tối thiểu của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.