1. Các yếu tố cấu thành Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Hồ sơ vụ án, vụ việc là toàn bộ các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án được thu thập trong quá trình giải quyết, được sắp xếp một cách có trật tự, có hệ thống theo quy định của cơ quan chủ quản hoặc theo chủ ý của người quản lý hồ sơ. Tùy thuộc vào từng loại vụ án và tính chất của mỗi vụ án mà hồ sơ vụ án có thể gồm các loại giấy tờ, tài liệu, chứng cứ được sắp xếp theo cách thức khác nhau để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, được lưu trữ trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo quy định tại Điều 375 BLHS 2015 thì hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc là thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư hỏng tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung vụ án, vụ việc. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:
Thứ nhất, chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc là chủ thể đặc biệt, bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Bên cạnh đó, chủ thể của tội này còn phải đáp ứng điều kiện là người từ đủ từ 16 tuổi trở lên và phải có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12, Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thứ hai, khách thể của tội phạm:
Tội phạm xâm phạm trực tiếp đến nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, vụ việc; hoạt động quản lý hồ sơ của cơ quan tiến hành tố tụng; lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, về mặt chủ quan của tội phạm
Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung vụ án, vụ việc của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Thứ tư, về mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện qua các hành vi:
– Thêm tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc là đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc những tài liệu, vật chứng không hợp pháp.
– Bớt tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc là lấy ra khỏi hồ sơ vụ án, vụ việc những tài liệu, vật chứng đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo quy định của pháp luật.
– Sửa đổi tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc là làm cho tài liệu, vật chứng không còn nguyên giá trị ban đầu.
– Đánh tráo tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc là thay vào hồ sơ vụ án, vụ việc các tài liệu, vật chứng khác làm cho tài liệu, vật chứng được đưa vào hồ sơ không phản ảnh đúng sự thật khách quan.
– Huỷ hoại hoặc làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc là làm cho tài liệu vật chứng mất hoàn toàn hoặc một phần giá trị.
– Những thủ đoạn khác ngoài những hành vi đã phân tích trên với mục đích nhằm làm sai lệch nội dung vụ án, vụ việc.
Lưu ý: Đây là tội có cấu thành hình thức do đó hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, chỉ cần người phạm tội thực hiện một trong các thủ đoạn như: thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án thì coi như tội phạm đã hoàn thành, bất kể kết quả giải quyết vụ án như thế nào đều không có ý nghĩa đến việc định tội đối với người phạm tội.
2. Hình phạt đối với Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Căn cứ quy định tại Điều 375 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì hình phạt đối với tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc bao gồm 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
– Khung hình phạt thứ nhất có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm được áp dụng đối với trường hợp Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư hỏng tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung vụ án, vụ việc.
– Khung hình phạt thứ hai có mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:
+ Có tổ chức;
+ Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch;
+ Gây thiệt hại từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
– Khung hình phạt thứ ba có mức hình phạt tù từ 10 năm đến 15 năm được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:
+ Dẫn đến việc kết án oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội;
+ Làm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự tự sát;
+ Gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.
– Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3. Những điểm mới của Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc tại Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999
So với Điều 300 Bộ luật hình sự 1999 thì Điều 375 Bộ luật hình sự 2015 đã có những thay đổi mang tính hoàn thiện hơn về hành lang pháp lý đối với Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc, cụ thể:
Thứ nhất, bổ sung hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ việc vào tội danh ghép làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Theo Điều 300 Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này.
Tại Điều 375 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bố sung năm 2017) đã bổ sung hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ việc vào tội danh ghép: “Điều 375. Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc”. Điều này phù hợp với thực tiễn giải quyết vụ án, vụ việc trong nhiều lĩnh vực, các ngành Công an, Tòa án hoặc Thi hành án dân sự đã xảy nhiều trường hợp làm sai lệch hồ sơ đối với những vụ việc đang xác minh làm rõ ban đầu, là tiền đề để kết luận có sự việc phạm tội hay không nhưng đã bị sự tác động một cách có ý thức của con người vì những động cơ, mục đích khác nhau. Kết quả làm sai lệch nội dung vụ việc dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Ngoài ra hồ sơ vụ việc còn bao gồm cả hồ sơ thi hành án trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án hay tổ chức kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản.. hoặc là các hồ sơ thụ lý giải quyết vụ, việc dân sự, hành chính…
Thứ hai, thay đổi về các dấu hiệu định khung hình phạt
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bỏ các quy định định khung về hậu quả “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng”, “đặt biệt nghiêm trọng” tại điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 300 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đây là điểm mới tiến bộ, bởi đó là những “hậu quả gián tiếp” do hành vi phạm tội gây ra, mà việc định tội, định hình phạt đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải căn cứ vào hậu quả trực tiếp của hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Tại điểm b, c khoản 2 Điều 375 BLHS năm 2015 quy định thêm tình tiết “Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch” và “Gây thiệt hại từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng” làm tình tiết định khung hình phạt, quy định này giúp việc xác định khung hình phạt đối với người phạm tội sẽ trở nên chính xác, khách quan hơn.
Tại điểm a, b, c khoản 3 Điều 375 BLHS năm 2015 bổ sung tình tiết “Dẫn đến việc kết án oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội”, “Làm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành án, người bị hại, đương sự tự sát” và “Gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên”.
Thứ ba, thay đổi về các mức hình phạt
Các mức hình phạt quy định tại Điều 375 BLHS năm 2015 (sửa đổi 2017) đã được tăng lên so với Điều 300 BLHS năm 1999 (trừ quy định tại khoản 1), cụ thể:
– Khoản 2 Điều 300 BLHS năm 1999 quy định mức hình phạt tù từ ba năm đến mười năm tù, còn khoản 2 Điều 375 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định mức hình phạt tù từ năm năm đến mười năm tù.
– Khoản 3 Điều 300 BLHS năm 1999 quy định mức hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù. Khoản 3 Điều 375 BLHS năm 2015 quy định mức hình phạt từ 10 năm đến 15 năm tù.
Như vậy, qua phân tích nêu trên cho chúng ta thấy: Đối với tội Làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có nhiều điểm mới mang tính khoa học, hợp lý, cụ thể, rõ ràng và hoàn thiện hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999, đã tạo nên cơ sở pháp lý cao hơn để đấu tranh với các thực trạng đang rất nóng hiện nay.