1. Các yếu tố cấu thành tội giết người
Theo quy định tại Điều 123 BLHS 2015 thì Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:
Thứ nhất, mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan của Tội giết người có thể được thực hiện qua hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm – quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm – quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Theo đó người phạm tội vì mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra nên đã cố ý không hành động, đặt nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Lưu ý: cần phân biệt Tội giết người với Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Nếu hành vi khách quan của Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân thì hành vi khách quan của Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng chỉ là hành vi cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Hậu quả của Tội giết người là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất – hậu quả chết người khác. Vì Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất nên thời điểm hoàn thành của tội phạm này là thời điểm nạn nhân đã chết sinh vật – giai đoạn cuối cùng của sự chết mà ở đó sự sống của con người không gây ra và cũng không có khả năng hồi phục.
Mối quan hệ nhân quả: Hành vi khách quan của Tội giết người được coi là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người khác nếu thoả mãn ba điều kiện: 1) Hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; 2) Hành vi độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người khác. Khả năng này chính là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Khả năng gây chết người của hành động là dùng dao sắc nhọn đâm vào ngực nạn nhân hay của không hành động là không cho trẻ sơ sinh ăn, uống…; 3) Hậu quả chết người khác đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan của Tội giết người hoặc là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động.
Xác định đúng nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người khác không những giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vấn đề có hành vi xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác xảy ra hay không mà còn có thể kết luận ai là người đã thực hiện hành vi đó
Thứ hai, mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội giết người có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Theo quy định tại Điều 10 BLHS năm 2015 thì lỗi cố ý trực tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhiều khả năng hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong muốn nạn nhân chết. Lỗi cố ý gián tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết.
Thứ ba, khách thể của tội phạm
Khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Tội giết người xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thông qua sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động – con người đang sống.
Thứ tư, chủ thể của tội phạm: Là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.Theo quy định tại khoản 1 Điều 9, khoản 2 Điều 12 và Điều 123 BLHS năm 2015 thì chủ thể của Tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
Như vậy, người được xác định là có hành vi phạm tội giết người phải thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm trên.
2. Hình phạt đối với người phạm tội giết người
Căn cứ quy định tại Điều 123 BLHS 2015 thì hình phạt đối với tội giết người bao gồm 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
– Khung hình phạt thứ nhất quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình được áp dụng đối với trường hợp phạm tội sau:
+ Giết 02 người trở lên;
+ Giết người dưới 16 tuổi;
+ Giết phụ nữ mà biết là có thai;
+ Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
+ Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
+ Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
+ Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
+ Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
+ Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
+ Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
+ Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
+ Thuê giết người hoặc giết người thuê;
+ Có tính chất côn đồ;
+ Có tổ chức;
+ Tái phạm nguy hiểm;
+ Vì động cơ đê hèn.
– Khung hình phạt thứ hai được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự với mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng đối với trường hợp phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 123 BLHS nêu trên.
– Khung hình phạt thứ ba được quy định tại khoản 3 Điều 123 Bộ luật hình sự với mức phạt tù từ 01 đến 05 năm được áp dụng đối với trường hợp người chuẩn bị phạm tội.
– Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
3. Những điểm mới của tội giết người tại Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999
Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định rõ tình tiết giết hai người trở lên thay vì quy định giết nhiều người trong định khung hình phạt tại Bộ luật hình sự năm 1999.
Thứ hai, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định cụ thể về tình tiết “giết người dưới 16 tuổi” thay vì quy định tình tiết “giết trẻ em” trong định khung hình phạt.
Thứ ba, Bộ luật hình sự năm 2015 bổ sung thêm một khung hình phạt chính là phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với trường hợp người chuẩn bị phạm tội này.
Thứ tư, Bộ luật hình sự năm 2015 bỏ đi tình tiết “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ” trong hình phạt bổ sung so với Bộ luật hình sự năm 1999.
Nhận thấy, việc sửa đổi, bổ sung các điều khoản về tội giết người tại Bộ luật Hình sự năm 2015 là cần thiết, các điều khoản được quy định cụ thể, rõ ràng tạo điều kiện thuận lợi cho người áp dụng luật.