1. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Căn cứ quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:
Thứ nhất, mặt khách quan của tội phạm
– Hành vi khách quan:
Mặt khách quan của tội này được thể hiện qua hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, cụ thể là không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ các quy định an toàn giao thông đường bộ.
Quy định về tham gia giao thông đường bộ là quy định của Luật Giao thông đường bộ năm 2008 về bảo đảm an toàn trong hoạt động người tham gia giao thông đường bộ như quy định về: Việc chấp hành báo hiệu đường bộ; tốc độ và khoảng cách giữa các phương tiện tham gia giao thông; sử dụng làn đường; vượt xe, chuyển hướng xe; lùi xe; tránh xe đi ngược chiều; dừng, đỗ xe trên đường (trong và ngoài đô thị); tham gia giao thông đường bộ qua cầu, phà, trong hầm đường bộ và tại các nơi đường giao cắt; tải trọng và khổ giới hạn của đường bộ; xe kéo xe và xe kéo rơ moóc…
– Hậu quả:
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là tội phạm có cấu thành vật chất. Do vậy, hậu quả xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 260.
– Mối quan hệ nhân quả:
Hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả (tai nạn giao thông) gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Nếu thiệt hại không phải do hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thì không cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
– Các dấu hiệu khách quan khác:
Phương tiện giao thông đường bộ; địa điểm (nơi vi phạm là công trình giao thông đường bộ)… Việc xác định các dấu hiệu khách quan này là rất quan trọng, là dấu hiệu để phân biệt giữa tội phạm này với các tội khác.Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ thì “Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ”. Phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại khoản 17 Điều 3 Luật giao thông đường bộ gồm “phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ”.
Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (gọi tắt xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.
Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (gọi tắt là xe thô sơ) gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự.
Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia giao thông đường bộ, khi tham gia giao thông đường bộ cũng phải chấp hành các quy định về tham gia giao thông đường bộ. Vì vậy, xe máy chuyên dùng cũng được coi như phương tiện giao thông đường bộ khi tham gia giao thông đường bộ.
Lưu ý:
– Chỉ những tài sản do hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trực tiếp gây ra, còn những thiệt hại gián tiếp không tính là thiệt hại để xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội như: Do bị thương nên phải chi phí cho việc điều trị và các khoản chi phí khác (mất thu nhập, làm chân giả, tay giả, mắt giả…). Mặt dù các thiệt hại này người phạm tội vẫn phải bồi thường nhưng không tính để xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội.
– Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản mà người phạm tội gây ra là thiệt hại đối với người khác, nên không tính thiệt hại mà người phạm tội gây ra cho chính mình.
Thứ hai, mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thực hiện hành vi do lỗi vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả).
Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Vô ý do cẩu thả là trường hợp người vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ không thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Thứ ba, khách thể của tội phạm
Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác.
Thứ tư, chủ thể của tội phạm
– Chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi.
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này là tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý và không có trường hợp nào là tội đặc biệt nghiêm trọng (theo quy định tại điều 12 Bộ luật Hình sự ).
– Là những người tham gia giao thông đường bộ; theo khoản 22 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định “Người tham gia giao thông gồm:người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ”. Như vậy, về chủ thể của tội phạm đã được mở rộng hơn, bao gồm tất cả những người tham gia giao thông đường bộ.
Như vậy, người được xác định là có hành vi phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phải thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành nêu trên.
2. Hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Căn cứ Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ bao gồm 04 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
– Khung hình phạt cơ bản có mức hình phạt là phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết sau:
– Làm chết người;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
– Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù 03 năm đến 10 năm được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
– Không có giấy phép lái xe theo quy định;
Đối với một số phương tiện giao thông, theo quy định thì người điều khiển phải có giấy phép lái xe thì mới điều khiển. Nếu người điều khiển các phương tiện này không có giấy phép lái xe, nhưng vẫn điều khiển mà vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ và gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Không có giấy phép lái xe theo quy định này là một trong những trường hợp sau đây:
– Điều khiển phương tiện giao thông không có giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện đang điều khiển đó mà theo quy định của pháp luật, khi điều khiển loại phương tiện đó phải có giấy phép lái xe phù hợp;
– Điều khiển phương tiện giao thông trong thời hạn bị tước quyền sử dụng giấy phép lái do cơ quan có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện đang điều khiển mà theo quy định của pháp luật, khi điều khiển loại phương tiện đó phải có giấy phép lái xe phù hợp;
– Điều khiển phương tiện giao thông trong thời hạn bị cơ quan có thẩm quyền cấm điều khiển loại phương tiện đó.
– Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;
Đây là trường hợp vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản mà người phạm tội sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác.
+ Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm (là trường hợp người phạm tội do vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản, nhưng sau đó đã bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm) hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn (là trường hợp người phạm tội do vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác nhưng đã cố ý không cứu giúp người bị nạn);
Đây là trường hợp người tham gia giao thông đường bộ đã không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông, nên đã gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe hoặc tài sản của người khác. Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông được coi là một hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ.
– Làm chết 02 người;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%:
– Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
– Làm chết 03 người trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
– Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
– Khung hình phạt thứ 4: Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm được áp dụng đối với trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các tình tiết tại khung hình phạt tăng nặng thứ hai nếu không được ngăn chặn kịp thời.
– Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3. Những điểm mới của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999
So với Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
Thứ nhất, sửa tội danh:
Tội danh “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa thành “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Việc sửa tội danh này nhằm mở rộng phạm vi xử lý các hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, không chỉ là hành vi vi phạm của người điều khiển phương tiện giao thông mà cả người tham gia giao thông đường bộ. Với tên gọi tội danh như Điều 202 của BLHS 1999 thì không thể xử lý trách nhiệm hình sự đối với “người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ” mặc dù họ cũng tham gia giao thông và gây thiệt hại đến tính mạng, gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe, gây thiệt hại về tài sản của người khác. Điều 260 BLHS năm 2015 đã sửa đổi tên điều luật theo hướng bao quát hơn, phản ánh đúng phạm vi và đối tượng điều chỉnh của điều luật, tức là người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về đảm bảo an toàn giao thông thì đều có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự về tội này.
Thứ nhất, về hình phạt thì có những điểm mới sau:
– Quy định cụ thể các tình tiết định khung hình phạt và tăng mức phạt tại khung hình phạt cơ bản, cụ thể: Mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng (trước đây là 5.000.000 đồng); mức phạt tù từ 01 năm (trước đây là 6 tháng).
– Bỏ tình tiết “Không có bằng lái xe theo quy định” tại điểm khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, nhằm thống nhất với quy định tại Điều 59 Luật giao thông đường bộ năm 2008.
– Bỏ tình tiết “đang làm nhiệm vụ” tại điểm d khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.
– Cụ thể hóa thành các tình tiết định khung hình phạt, cụ thể:
– So với điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ nêu tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” thì khoản 2 (điểm đ, e, g, h) Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 cụ thể hóa thành các tình tiết định khung hình phạt.
– Trong khoản 3 của Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là: “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Khoản 3 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa thành các tình tiết định khung hình phạt.
– Bỏ tình tiết dẫn đến “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 4 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 mà thay vào đó tình tiết dẫn đến “hậu quả tại một trong các điểm a, b, c và khoản 3 điều này” tại khoản 4 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tai nạn giao thông là vấn đề nhức nhối đang được xã hội quan tâm và trở thành hiểm họa đối với bất kì ai khi tham gia giao thông. Trong những năm qua, mặc dù Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã đề ra nhiều biện pháp nhằm kiềm chế, giảm thiểu tai nạn giao thông nhưng tình trạng vi phạm các quy định về an toàn giao thông vẫn chưa thuyên giảm, nhiều vụ tai nạn giao thông gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng vẫn xảy ra. Do đó chính sách pháp luật về hình sự cũng được thay đổi theo nhằm hạn chế tình trạng tai nạn giao thông.
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung nhiều quy mới khắc phục những bất cập, hạn chế của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, tạo ra sự công bằng, triệt để trong xử lý, đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thực tiễn.