Quy định pháp luật về tội tham ô tài sản

Quy định pháp luật về tội tham ô tài sản

Ngày Đăng: 14 Tháng 7, 2021

1. Các yếu tố cấu thành tham ô tài sản

Căn cứ quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương XXIII (từ Điều 353 đến Điều 359) Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:

Thứ nhất, mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội này được thể hiện qua hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để có thể chiếm đoạt tài sản. Đối tượng của hành vi chiếm đoạt là những tài sản mà người phạm tội được giao quản lý. Thủ đoạn của tội tham ô tài sản là sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao như điều kiện, phương tiện để có thể dễ dàng biến tài sản được giao thành tài sản của mình. Những thủ đoạn thường gặp ở tội tham ô là: Lập chứng từ giả, tẩy xóa, sửa chữa sổ sách, tài liệu, giấy tờ…

Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý chỉ cấu thành tội tham ô tài sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên;

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi tham ô tài sản mà còn vi phạm.

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về một trong các tội: Tội tham ô tài sản; Tội nhận hối lộ; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Tội giả mạo trong công tác, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Lưu ý: Tội tham ô tài sản là tội phạm có cấu thành nội dung. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội này. Điều này có nghĩa, người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi chiếm đoạt được tài sản.

Thứ hai, mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi là tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn hậu quả xảy ra.

Thứ ba, khách thể của tội phạm

Hành vi tham ô tài sản xâm phạm xâm phạm đến những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong Nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước, đồng thời xâm phạm đến tài sản mà người phạm tội có trách nhiệm quản lý. Các tài sản này bao gồm tài sản của Nhà nước giao cho các cơ quan, tổ chức trong Nhà nước hoặc là tài sản các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước.

Thứ tư, chủ thể của tội tham ô tài sản

Chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn quản lý tài sản, từ đủ 16 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo quy định tại Điều 12, Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015). Những người không có chức vụ, quyền hạn này chỉ có thể là đồng phạm tham ô với vai trò là người xúi giục, tổ chức hay giúp sức.

Như vậy, người được xác định là có hành vi phạm tội tham ô tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành nêu trên.

2. Hình phạt đối với tội tham ô tài sản

Điều 353 Bộ Luật hình sự năm 2015sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định người lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý thì bị:

(1) Phạt tù từ 02 – 07 năm nếu trị giá tài sản từ 02 đến dưới 100 triệu đồng hoặc dưới 02 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

– Đã bị kết án về một trong các tội: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi hành công vụ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

(2) Phạt tù từ 07 – 15 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– (Phạm tội) có tổ chức: Tham ô có tổ chức là trường hợp tham ô có sự cấu kết chặt chẽ của những người đồng phạm. Sự cấu kết chặt chẽ tạo điều kiện cho những người phạm tội chuẩn bị, thực hiện và che dấu hành vi phạm tội.

– Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm: là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao đê thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc có thể gây hậu quả nghiêm trọng khác để chiếm đoạt tài sản hoặc che giấu tội phạm (quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP).

– Phạm tội 02 lần trở lên: Là trường hợp người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điều này từ 02 lần trở lên và mỗi hành vi đều cấu thành tội phạm, nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP);

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100 đến dưới 500 triệu đồng;

– Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn;

– Gây thiệt hại về tài sản từ 01 đến dưới 03 tỷ đồng;

– Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức.

(3) Phạt tù từ 15 – 20 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500 triệu đến dưới 01 tỷ đồng;

– Gây thiệt hại về tài sản từ 03 đến dưới 05 tỷ đồng;

– Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

– Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.

(4) Phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

– Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;

– Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.

(5) Ngoài những khung hình phạt chính nêu trên thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng khung hình phạt bổ sung là: cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Lưu ý: Về nguyên tắc xử lý đối với tội phạm tham ô tài sản, căn cứ theo quy định như sau:

– Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội tham ô tài sản thuộc một trong hai trường hợp: Phạt tù từ 15 – 20 năm; Phạt tù từ từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình (khoản 3 Điều 28 Bộ luật Hình sự năm 2015);

– Có thể không thi hành án tử hình với người phạm tội tham ô tài sản nếu sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015).

Bên cạnh đó, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì cũng bị xử lý theo quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 như trên.

3. Những điểm mới của tội tham ô tài sản tại Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999

Thứ nhất, về chủ thể của tội Tham ô tài sản có điểm mới sau:

Theo quy định tại Điều 278 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì tội tham ô tài sản chỉ cấu thành khi chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn làm việc, công tác tại các cơ quan, tổ chức Nhà Nước.

Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì chủ thể phạm tội bao gồm cả người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước.

Như vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi về chủ thể của tội phạm nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước.

Thứ hai, về hình phạt thì có những điểm mới sau:

Mặc dù Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định vẫn giữ nguyên các khung hình phạt, tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 40 Bộ luật hình sự 2015 thì quy định không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân).

Quy định nêu trên được đặt ra với mục đích quan trọng nhất là góp phần thu hồi tài sản tham ô, tránh thất thoát tài sản của Nhà nước tại các cơ quan, tổ chức. Đồng thời, quy định này cũng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật khi tạo điều kiện cho người phạm tội cơ hội cuối cùng được khắc phục hậu quả, nộp lại tài sản đã tham ô và hợp tác với cơ quan có thẩm quyền trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm để hưởng chính sách khoan hồng.

Thứ ba, về tình tiết định khung có điểm mới sau:

Một là, tăng giá trị tài sản chiếm đoạt đối với người phạm tội, theo đó, đối với khung hình phạt cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ Luật Hình sự năm 2015 thì tăng giá trị tài sản chiếm đoạt từ 500.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thành từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng. Tương tự, giá trị tài sản chiếm đoạt cũng được quy định tăng lên ở các khung hình phạt tăng nặng tiếp theo, cụ thể như sau:

Đối với khung hình phạt tăng nặng quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ Luật Hình sự năm 2015 thì tăng giá trị tài sản chiếm đoạt từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng thành từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

Đối với khung hình phạt tăng nặng quy định tại khoản 3 Điều 155 Bộ Luật Hình sự năm 2015 thì tăng giá trị tài sản chiếm đoạt từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng thành từ  500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

Đối với khung hình phạt tăng nặng quy định tại khoản 4 Điều 155 Bộ Luật Hình sự năm 2015 thì tăng giá trị tài sản chiếm đoạt từ 500.000.000 đồng trở lên thành từ 1.000.000.000 đồng trở lên.

Việc tăng giá trị tài sản chiếm đoạt nêu trên là hợp lý, phù hợp với thực tiễn xử lý loại tội phạm này, đồng thời phù hợp với sự phát triển kinh tế của nước ta (từ năm 1999 đến năm 2015).

Hai là, thay thế tình tiết định khung “Gây hậu quả nghiêm trọng khác” thành tình tiết “Gây thiệt hại về tài sản” với giá trị thiệt hại được tính bằng số tiền cụ thể đối với từng khung hình phạt. Do đó, việc xác định khung hình phạt đối với người phạm tội sẽ trở nên chính xác, khách quan hơn.

Ba là, bổ sung các tình tiết định khung, cụ thể:

– Đối với khung hình phạt cơ bản có mức phạt là phạt từ từ 02 năm đến 07 năm đã bổ sung tình tiết định khung sau: Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương XXIII, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Đối với khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm, bổ sung các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

+ Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.

+ Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức.

– Đối với khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 15 năm đến 20 năm, bổ sung các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

+ Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.

Việc bổ sung nêu trên là vô cùng cần thiết góp phần làm giảm đáng kể tội phạm tham ô tài sản tại nước ta, giúp đảm bảo trật tự, an toàn xã hội hướng tới việc phát triển kinh tế – xã hội của Đất nước.

Đặc biệt, trong thời gian qua cho thấy rất nhiều trường hợp lợi dụng quyền hạn, chức vụ chiếm đoạt tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Do đó, việc Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định các chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với Tội tham ô tài sản là phù hợp với yêu cầu đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này trong thực tiễn.

NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CHẾ ĐỘ MỘT VỢ, MỘT CHỒNG

1. Các yếu tố cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

1. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về bảo vệ động […]

XEM THÊM
NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội tham ô tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM