Quy định pháp luật về tội cưỡng đoạt tài sản

Quy định pháp luật về tội cưỡng đoạt tài sản

Ngày Đăng: 4 Tháng 1, 2022

1. Các yếu tố cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản

Căn cứ quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì cưỡng đoạt tài sản được hiểu là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội này bao gồm:

1.1. Về mặt khách quan của tội phạm

Thứ nhất, có hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực

Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực được hiểu là hành vi thể hiện thái độ, cử chỉ, lời nói tạo cho người bị đe dọa cảm giác sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng bạo lực nếu không để cho lấy tài sản. Giữa thời điểm đe dọa sẽ dùng vũ lực với thời điểm dùng vũ lực có một khoảng cách nhất định về thời gian nên người bị đe dọa có điều kiện suy nghĩ, cân nhắc để quyết định hành động. Việc đe dọa có thể được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp:

  • Đe dọa trực tiếp: Người phạm tội thực hiện đe dọa bằng lời nói, cử chỉ, hành động… công khai, trực tiếp với người bị hại.
  • Đe dọa gián tiếp: Người phạm tội thực hiện việc đe dọa sẽ dùng vũ lực thông qua các thình thức như: nhắn tin, điện thoại, thư… mà không gặp người bị hại

Trong thực tế, có những trường hợp người bị hại bị người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực nếu không giao tài sản cho người phạm tội nhưng người bị hại không sợ và không giao tài sản cho người phạm tội, sau đó người phạm tội đã thực hiện hành vi vũ lực đối với người bị hại thì cũng không phải là hành vi cướp tài sản mà vẫn là hành vi cưỡng đoạt tài sản.

Thứ hai, có hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác

Hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi đe dọa sẽ làm một việc gây thiện hại về tài sản, danh dự, uy tín nếu người bị uy hiếp không thỏa mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội.

Các thủ đoạn thường sử dụng là lợi dụng những lỗi lầm, khuyết điểm của người bị hại mà người phạm tội biết được để đe dọa sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dựnhân phẩm của họ hoặc đe dọa hủy hoại tài sản, tố giác hành vi phạm pháp… của người bị đe dọa.

Lưu ý: Tội cưỡng đoạt tài sản là tội phạm cấu thành hình thức và thời điểm hoàn thành tội phạm này được tính từ lúc người phạm tội thực hiện xong hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn uy hiếp tinh thần người khác kèm theo đòi hỏi về giao tài sản để (với mục đích) chiếm đoạt. Nếu chỉ thuần túy đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần mà không có hay không gắn liền với yêu cầu về tài sản để chiếm đoạt thì không cấu thành tội phạm này. Việc người thực hiện hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có hành vi khác uy hiếp tinh thần người khác có chiếm đoạt được tài sản hay không không ảnh hưởng đến việc định tội danh.

Nếu người phạm tội mới có hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện, phương thức… để đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa thực hiện được thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

Thứ ba, về hậu quả của tội phạm

Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức, do đó hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.

Theo Điều 170 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 50.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 50.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện:

  • Phạm tội có tổ chức;
  • Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
  • Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

1.2.Về mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác là dấu hiệu cấu thành cơ bản tội phạm này.

Về nguyên tắc mục đích chiếm đoạt tài sản phải có trước hành vi đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn uy hiếp tinh thần khác. Nhưng cũng có trường hợp chuyển hóa tội phạm, có nghĩa là người phạm tội đã thực hiện một tội phạm khác nhưng sau đó lại xuất hiện mục đích chiếm đoạt tài sản.

Ví dụ: Tội “Trộm cắp tài sản” chuyển hóa thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” (Người phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, sau đó có hành vi đe dọa vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần nạn nhân để nạn nhân giao tài sản).

Trần Xuân C, Nguyễn Mậu L và Phạm Vương T đang thực hiện hành vi trộm cắp gà chọi của ông P thì bị cháu Trần Thanh D phát hiện, P đã có lời nói đe dọa đối với cháu D rồi cùng đồng bọn chiếm đoạt ba con gà chọi có tổng trị giá 5.000.000đ. Hành vi của các bị cáo chuyển hóa từ tội “Trộm cắp tài sản” sang tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

 1.3. Về khách thể của tội phạm

Tội cưỡng đoạt tài sản là cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Nếu có xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì không phải là những thiệt hại về thể chất (tính mạng, thương tật), mà chỉ có thể là những thiệt hại về tinh thần (sự sợ hãi, lo âu), tuy có ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng không gây ra thương tích cho người bị hại.

1.4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự chỉ là chủ đề của tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015.

2. Hình phạt đối với cưỡng đoạt tài sản:

Căn cứ Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt đối với cưỡng đoạt tài sản bao gồm 04 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung:

2.1. Khung hình phạt cơ bản: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm nếu hành vi phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

2.2. Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất: phạt tù từ 03 năm đến 10 năm nếu hành vi phạm tội có một trong số những tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật Hình sự Việt Nam.

+ (Phạm tội) Có tổ chức;

+ (Phạm tội) Có tính chất chuyên nghiệp;

+ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

+ Tái phạm nguy hiểm.

2.3. Khung hình phạt tăng nặng thứ hai: phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu hành vi phạm tội có một trong số những tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 3 Điều 170 Bộ luật Hình sự Việt Nam.

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh

2.4. Khung hình phạt tăng nặng thứ ba: phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu hành vi phạm tội có một trong số những tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 4 Điều 170 Bộ luật Hình sự Việt Nam.

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

3. Những điểm mới của tội cưỡng đoạt tài sản tại Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999

Thứ nhất, bổ sung dấu hiệu định khung: “Phạm tội tối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ”

Thứ hai, thay đổi tình tiết định khung sau:

– Thay tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” bằng tình tiết Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” (điểm đ khoản 2).

– Thay tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng tình tiết “Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” (Điều b Khoản 3).

– Thay tình tiết “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng tình tiết “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” (điểm b khoản 4).

Hiện nay nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, hội nhập; kéo theo đó là sự bất ổn của xã hội ngày một lớn, các tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng ngày càng có xu hướng gia tăng có nhiều diễn biến phức tạp, gây ra hậu quả và tác hại lớn cho xã hội. Trong đó hành vi cưỡng đoạt tài sản được coi là một trong  những hành vi gây hậu quả hết sức nghiêm trọng, là vấn đề gây nhức nhối với toàn xã hội. Cưỡng đoạt tài sản là tội  phạm xâm hại nghiêm trọng tới cả quan hệ sở hữu và nhân thân, hành vi phạm tội thường được thực  hiện một cách nguy hiểm, côn đồ, công khai với người bị hại, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, kỷ cường xã hội.

NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM
NGHIÊN CỨU QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1. Các yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản. Theo quy định tại […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CHẾ ĐỘ MỘT VỢ, MỘT CHỒNG

1. Các yếu tố cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng […]

XEM THÊM
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

1. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về bảo vệ động […]

XEM THÊM