Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 thì: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự”.
Tại Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”.
Như vậy, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù khi có đầy đủ những điều kiện nhằm khuyến khích người được hưởng án treo trở thành công dân có ích cho xã hội. Người được áp dụng án treo phải chấp hành các nghĩa vụ theo quy định pháp luật.
1. Nghĩa vụ của người được hưởng án treo
Theo quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019 thì người được hưởng án treo có những nghĩa vụ sau:
– Người được hưởng án treo, người đại diện của người được hưởng án treo phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để nhận quyết định thi hành án treo và cam kết việc chấp hành án, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan..
– Thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
– Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc.
– Chấp hành quy định tại Điều 92 về giải quyết việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được hưởng án treo, cụ thể:
+ Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định pháp luật, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
+ Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
+ Người được hưởng án treo không được xuất cảnh trong thời gian thử thách.
– Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
– Hằng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Trường hợp vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép thì khi hết thời hạn vắng mặt, người được hưởng án treo phải báo cáo về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình.
2. Xử lý vi phạm đối với người được hưởng án treo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 91 Luật Thi hành án hình sự 2019, trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục tổ chức kiểm điểm:
– Vi phạm nghĩa vụ quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 87 của Luật thi hành án hình sự và đã bị nhắc nhở bằng văn bản về việc vi phạm mà tiếp tục vi phạm;
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính.
Theo quy định tại Điều 93 Luật Thi hành án hình sự 2019 thì người được hưởng án treo nếu vi phạm nghĩa vụ thì sẽ bị xử phạt như sau:
– Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều 87 của Luật này thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm, đồng thời yêu cầu người được hưởng án treo phải có mặt trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm. Hết thời hạn này mà người được hưởng án treo vẫn không có mặt thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm và đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người được hưởng án treo cư trú, Tòa án quân sự khu vực nơi người được hưởng án treo làm việc quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
– Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo đã bị kiểm điểm theo quy định tại Điều 91 của Luật này nhưng sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bằng văn bản mà vẫn cố ý vi phạm thì Công an cấp xã đề xuất Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo, đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
– Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo do đơn vị quân đội giám sát, giáo dục đã bị kiểm điểm theo quy định tại Điều 91 của Luật này nhưng sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm và đã được nhắc nhở bằng văn bản mà vẫn cố ý vi phạm thì đơn vị quân đội giám sát, giáo dục lập biên bản vi phạm và đề nghị cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu tiến hành trình tự, thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo, đồng thời gửi Viện kiểm sát quân sự cùng cấp.
3. Những điểm mới về nghĩa vụ của người được hưởng án treo tại Luật thi hành án hình sự năm 2019 so với Luật thi hành án hình sự 2010
Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 87 Luật thi hành án hình sự 2019 đã bổ sung thêm nội dung: Người được hưởng án treo, người đại diện của người được hưởng án treo phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để nhận quyết định thi hành án treo và cam kết việc chấp hành án (trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường hợp người được hưởng án treo không có mặt theo giấy triệu tập hoặc không cam kết thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm nghĩa vụ).
Thứ hai, tại khoản 2 Điều 87 Luật thi hành án hình sự năm 2019 đã bổ sung thêm nội dung người được hưởng án treo phải thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế ở nơi học tập. Đồng thời, cũng bổ sung thêm trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thì người được hưởng án treo không phải chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, quy định cụ thể hơn về các cơ quan trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo đó là: Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc.
Thứ tư, tại khoản 4 Điều 87 Luật thi hành án hình sự 2019 đã bổ sung thêm nội dung: “Người được hưởng án treo không được xuất cảnh trong thời gian thử thách”.
Thứ năm, tại khoản 5 Điều 87 Luật thi hành án hình sự năm 2019 đã bổ sung thêm nội dung người được hưởng án treo phải có mặt theo yêu cầu của đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
Thứ sáu, tại khoản 6 Điều 87 Luật thi hành án hình sự 2019 đã rút ngắn thời gian mà người được hưởng án treo phải báo cáo bằng văn bản về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình từ 03 tháng/lần xuống còn 01 tháng/lần. Trường hợp người được hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú thì khi hết thời hạn vắng mặt, người được hưởng án treo tự báo cáo về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình mà không cần có nhận xét của Công an cấp xã nơi người đó đến lưu trú hoặc tạm trú.
Như vậy, tại Luật thi hành án hình sự năm 2019 đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn về nghĩa vụ của người được hưởng án treo, trường hợp người được hưởng án treo vi phạm nghĩa vụ thì sẽ bị xử phạt theo quy định pháp luật nêu trên.