Doanh nghiệp nhập khẩu sản phẩm thuốc từ Ấn Độ có phải chịu sự điều chỉnh của Luật sở hữu trí tuệ hay không?

Doanh nghiệp nhập khẩu sản phẩm thuốc từ Ấn Độ có phải chịu sự điều chỉnh của Luật sở hữu trí tuệ hay không?

Ngày Đăng: 14 Tháng 7, 2021

1. Tại sao Ấn Độ có thể sản xuất bất kỳ sản phẩm nào mà không bị kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về sáng chế?

Thứ nhất, Ấn Độ là thành viên của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới Wipo một trong những cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc, được thành lập vào năm 1967 có mục tiêu chính là “đẩy mạnh hoạt động trí tuệ sáng tạo và tạo điều kiện chuyển giao công nghệ liên quan đến sở hữu trí tuệ sang các nước đang phát triển nhằm mục tiêu đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá” và phạm vi hoạt động là “khuyến khích sự sáng tạo của nhân loại và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới” và tham gia Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ…

Thứ hai, theo quy định tại Luật Sáng chế năm 1970 của Ấn Độ thì pháp luật Ấn Độ chỉ bảo vệ các bằng sáng chế liên quan đến quy trình mà không bảo hộ sản phẩm. Theo Luật này, các nhà sản xuất thuốc Ấn Độ có thể sao chép các sản phẩm dược phẩm được cấp bằng sáng chế ở nước ngoài nhưng không được bảo hộ tại Ấn Độ, dẫn đến sự bùng nổ trong sản xuất thuốc và sản phẩm thuốc gốc ở quốc gia này.

Ngoài ra, thời gian bảo hộ sáng chế tại ấn độ rất ngắn, khoảng từ 5-7 năm đã tạo điều kiện cho các Công ty dược phẩm Ấn Độ tiến hành sản xuất sản phẩm khi sáng chế hết hiệu lực.

Tuy nhiên, do phải tuân thủ quy định tại Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS), năm 2005 Ấn Độ đã sửa đổi Luật Sáng chế năm 1970 theo hướng:

– Giữ lại các biện pháp hợp pháp để cân bằng các khuyến khích đổi mới và ổn định chi phí xã hội của bằng sáng chế sản phẩm dược phẩm;

– Chỉ bảo vệ những bằng sáng chế dược phẩm nếu trong thành phần các chất hóa học tạo nên chúng hoàn toàn mới hoặc tăng cường thêm chất mới. Ấn Độ không cấp bản quyền cho các sáng chế dược phẩm không đem lại hiệu quả vượt trội so với thuốc cũ trừ khi các nhà khoa học chứng minh được điều đó. Việc này nhằm mục đích bảo hộ, tạo điều kiện cho các Công ty dược trong nước phát triển, tự do sản xuất các sản phẩm thuốc để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Do đó, tại Ấn Độ các Công ty dược phẩm có thể sản xuất bất kỳ sản phẩm nào không được bảo hộ tại Ấn Độ và tiến hành xuất khẩu tới các nước trên thế giới.

2. Công ty dược phẩm Việt Nam tiến hành nhập khẩu sản phẩm thuốc của Ấn Độ thì có phải chịu sự điều chỉnh của Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hay không?

Thứ nhất, Việt Nam đang là thành viên của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Hiệp ước hợp tác về sáng chế, Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp…

Thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Hiệp định Trips, tuỳ thuộc vào khoản 4 Điều 65, khoản 8 Điều 70 và khoản 3 Điều này, các patent phải được cấp và các quyền patent phải được hưởng không phân biệt nơi tạo ra sáng chế, lĩnh vực công nghệ và bất kể các sản phẩm được nhập khẩu hay được sản xuất trong nước.

Thứ ba, theo quy định tại Điều 2 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Thứ tư, sáng chế được bảo hộ theo phạm vi lãnh thổ. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 124 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sử dụng sáng chế bao gồm hoạt động nhập khẩu sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ và quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 về các hành vi bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế thì hành vi sử dụng sáng chế được bảo hộ trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu là hành vi xâm phạm.

Do đó, khi tiến hành nhập khẩu sản phẩm thuốc từ Ấn Độ hay một quốc gia khác bất kỳ, Công ty trong nước có trách nhiệm tuân thủ quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam.

Trường hợp Công ty dược phẩm trong nước nhập khẩu sản phẩm thuốc hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình đang được bảo hộ tại Việt Nam thì đây là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về sáng chế và bị áp dụng chế tài xử phạt theo quy định pháp luật, trong đó có chế tài buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại khoản 28 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009.

Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 199 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005).

Quyền của Chủ sở hữu Bí mật kinh doanh

1. Khái niệm Chủ sở hữu Bí mật kinh doanh Theo quy định tại khoản […]

XEM THÊM
Bí mật kinh doanh và điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh

1. Khái niệm Bí mật kinh doanh Theo quy định tại khoản 23 Điều 4 […]

XEM THÊM
QUYỀN ĐĂNG KÝ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý Theo quy định tại khoản 22 Điều 4 […]

XEM THÊM
Thủ tục giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ

Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy […]

XEM THÊM