Tiếp theo bài báo về các hình thức xử phạt (nếu có) đối với người tham gia “chơi Forex”, bài báo này sẽ tập trung đi sâu phân tích trách nhiệm của người môi giới khi môi giới để người tham gia sàn giao dịch Forex.
Forex là viết tắt của cụm từ Foreign Exchange, nghĩa là trao đổi tiền tệ quốc tế. Trong đó, thị trường forex hay thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi tiền tệ của các quốc gia thông qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh trao đổi tiền tệ trong thị trường Forex được thực hiện bằng cách mua, bán, trao đổi loại tiền tệ này với loại tiền tệ khác. Lợi nhuận của giao dịch sẽ tính theo phần chênh lệch giữa việc mua vào, bán ra.
1. Các thủ đoạn mà người môi giới thường sử dụng trên thực tế để mời chào người chơi
Những chiêu thức hoạt động của các sàn Forex trái phép tại Việt Nam có thể được coi là phương thức lừa đảo, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của người dân để chiếm đoạt tài sản. Các cách thức lừa đảo, lôi kéo các nhà đầu tư tại Việt Nam mà người môi giới có thể sử dụng như sau:
– Do pháp luật Việt Nam chưa cho phép mở các sàn giao dịch ngoại hối tại Việt Nam, để lấy lòng tin của nhà đầu tư, các đối tượng môi giới quảng cáo rằng sàn Forex có nguồn gốc từ nước ngoài, độ uy tín cao, có các hệ thống kỹ thuật giúp thực hiện giao dịch nhanh chóng, chính xác, được liên kết với các nền tảng giao dịch tiền điện tử lớn trên thế giới, lãi suất cao, khoảng từ 15 – 30%/tháng trên tổng số tiền đầu tư.
– Phương thức hoạt động của các sàn Forex là cho các nhân viên môi giới mời chào lôi kéo, thu hút người chơi qua hình thức chào mời đầu tư qua điện thoại; liên hệ qua mạng xã hội Zalo, Viber, Facebook… Thường ban đầu, họ cho nhà đầu tư đánh thắng để nạp thêm nhiều tiền vào tài khoản, sau đó, tư vấn đánh các lệnh lớn, thu mức phí lớn và không rõ ràng dẫn đến mất hết tiền trong tài khoản của nhà đầu tư. Khi đã thua hết tiền, các đối tượng sẽ giới thiệu nhà đầu tư sang một sàn Forex mới, với cam kết nếu nạp tiền vào sẽ gỡ lại được số tiền đã thua.
– Các sàn Forex được các đối tượng quản trị thiết kế với các chức năng can thiệp vào tài khoản của các khách hàng. Admin có thể tự đặt lệnh vào tài khoản khách hàng, thay đổi số dư tiền trên tài khoản; can thiệp vào quá trình đặt lệnh như kéo dài độ trễ của lệnh, kéo giãn khoảng giá mua và bán, sau đó lấy hết tiền trong tài khoản nhà đầu tư.
– Việc quảng cáo, kêu gọi đầu tư thông qua các sàn đầu tư tài chính, đặc biệt là hình thức đầu tư thị trường ngoại hối Forex tại Việt Nam có dấu hiệu của việc kinh doanh theo phương thức đa cấp trái phép. Cụ thể, các công ty tài chính, các sàn Forex trái phép này thường lôi kéo người tham gia bằng hình thức trả thưởng, “hoa hồng” cho môi giới sau khi họ mời thêm thành viên; đồng thời, xây dựng hệ thống kinh doanh nhiều cấp, nhiều nhánh.
– Một số sàn lừa đảo nhìn rất giống các sàn quốc tế nhưng thực tế là sàn giả, không liên thông với tỷ giá quốc tế. Người đứng sau quản trị có thể tự điều chỉnh thắng, thua cho nhà đầu tư hoặc sau một thời gian, khi đã chiếm đoạt hết tiền của nhà đầu tư, các đối tượng cầm đầu sẽ đánh sập sàn giao dịch để tránh sự truy vết của cơ quan chức năng và nhà đầu tư không thể đòi lại được tiền
– Các đối tượng môi giới cũng hết sức tinh vi khi đăng ký doanh nghiệp mở sàn ở nước ngoài, không có quá nhiều thông tin được công khai hay thậm chí chỉ là một doanh nghiệp được lập ra làm bình phong cho các chiêu trò lừa đảo.
Như vậy, bản chất của việc tham gia sàn Forex là sự tương tác giữa người đầu tư và chủ sàn, diễn ra hoàn toàn trên không gian mạng nên tiềm ẩn rủi ro rất lớn về tài chính cho người tham gia.
2. Hành vi môi giới để người tham gia sàn giao dịch Forex có vi phạm pháp luật không?
Như đã phân tích tại bài trước, hành vi hoạt động kinh doanh, môi giới ngoại hối khi không được cấp có thẩm quyền cấp giấy phép quy định hoạt động sẽ bị phạt hành chính từ 200 – 250 triệu đồng theo quy định của pháp luật theo quy định tại khoản 8 Điều 23 Nghị định 88/2019/NĐ-CP.
Ngoài ra, trường hợp nhân viên môi giới hay sàn Forex sử dụng các chiêu trò gian dối, khiến nhà đầu tư thua lỗ, mất tiền thì tùy hành vi vi phạm có thể có dấu hiệu cấu thành các tội sau:
2.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015
2.1.1. Các hành vi của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Căn cứ quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối.
Dấu hiệu hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau là: hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hai hành vi này có quan hệ mật thiết với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện để hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối.
Theo đó, nhân viên môi giới thường lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của nhà đầu tư để sử dụng các hành vi lừa dối, mời chào nhà đầu tư tham gia chơi Forex, sau đó can thiệp vào tài khoản của các khách hàng, đánh sập sàn giao dịch nhằm mục đích chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư.
Hậu quả mà những hành vi nói trên gây ra trước hết là thiệt hại gây ra cho quan hệ sở hữu, thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất cụ thể là tài sản bị chiếm đoạt.
2.2.2. Hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Căn cứ Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm 04 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung.
– Khung hình phạt cơ bản có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau: (1) Có tổ chức; (2) Có tính chất chuyên nghiệp; (3) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; (4) Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm; (5) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; (5) Dùng thủ đoạn xảo quyệt.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được quy định cho trường phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau: (1) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (2) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được quy định cho trường phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau: (1) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên; (2) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
– Khung hình phạt bổ sung được quy định (có thể được áp dụng) là: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng cầm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Các yếu tố cấu thành tội này đã được phân tích cụ thể trong bài “Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
2.2. Tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản tại Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015
2.2.1. Các hành vi của tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Người phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử như một công cụ để thực hiện một trong các hành vi sau:
– Hành vi sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ, chủ tài khoản hoặc thanh toán dịch vụ, mua hàng hóa. Hành vi được thực hiện thông qua các thủ đoạn như trộm cắp, lừa đảo để có được thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của người khác, sau đó dùng thông tin đó để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản.
– Hành vi làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ.
– Hành vi truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản. Đó là hành vi vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc các phương thức khác truy cập bất hợp pháp vào của cơ quan, tổ chức nhằm chiếm đoạt tài sản (trực tiếp) của chủ thẻ đó.
– Hành vi lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản. Kẻ phạm tội đưa ra các thông tin gian dối trong các lĩnh vực trên nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý tài sản, làm họ tưởng thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó.
Các hành vi trên chỉ cấu thành tội này khi không thuộc trường hợp tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 173 và Điều 174 BLHS năm 2015.
Hậu quả: Đây là loại tội phạm có cấu thành hình thức nên hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc của tội phạm, tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội có một trong các hành vi trên nhằm chiếm đoạt tài sản, không kể là đã chiếm được hay chưa.
2.2.2. Hình phạt đối với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Căn cứ theo quy định tại Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hình phạt đối với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được bao gồm 04 khung hình phạt chính và 01 hình phạt bổ sung, cụ thể như sau:
Khung 1: Theo Khoản 1 Điều 290 BLHS thì người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm khi có một trong các hành vi vi phạm như phân tích trên
Khung 2: Theo Khoản 2 Điều 290 BLHS thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; áp dụng đối với các trường hợp có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến 200 thẻ; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đến dưới 200.000.000đ ồng; gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; tái phạm nguy hiểm,
Khung 3: Theo Khoản 3 Điều 290 BLHS thì người phạm tội bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp: (1) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 VNĐ đến dưới 500.000.000 VNĐ; (2) Gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 VNĐ đến dưới 500.000.000 VNĐ; (3) Chiếm đoạt số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ.
Khung 4: Theo Khoản 4 Điều 290 BLHS thì người phạm tội bị phạt tù 12 năm đến 20 năm thuộc một trong các trường hợp: (1) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 VNĐ trở lên; (2) Chiếm đoạt số lượng thẻ giả từ 500 thẻ trở lên.
Hình phạt bổ sung: Theo Khoản 5 Điều 290 BLHS thì ngoài những khung hình phạt chính nêu trên thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng khung hình phạt bổ sung là: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Các yếu tố cấu thành tội này đã được phân tích cụ thể trong bài “Tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
Như vậy, hành vi môi giới người chơi tham gia “chơi Forex” có thể bị xử lý hành chính theo quy định tại khoản 8 Điều 23 Nghị định 88/2019/NĐ-CP (phân tích tại bài trước) hoặc bị xử lý trách nhiệm hình sự về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 hoặc Tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản theo Điều 290 Bộ luật Hình sự 2015.